Theo đó, bệnh viện đã tiếp nhận và điều trị cho bé trai một tháng tuổi. Khai thác bệnh sử bé có tiền căn lúc sinh là 37 tuần, cân nặng lúc sinh 3,4 kg, sinh thường, có chướng bụng sau sinh.
Trẻ nhập viện vì ọc ói rất nhiều, nhất là ba ngày trước nhập viện. Đáng lưu tâm, mẹ của bệnh nhi không khám thai định kỳ tại các cơ sở y tế và chỉ đến các phòng khám tư vào những tháng cuối thai kỳ.
Tại khoa Sơ sinh bệnh viện Nhi Đồng 2, bé ọc sữa nhiều hơn, vẻ mặt đừ do mất nước và ghi nhận bụng rất trướng. Sau khi được các bác sĩ thăm khám và nghi ngờ có khối u vùng thượng vị, trẻ được chỉ định siêu âm ổ bụng.
Kết quả trong bụng trẻ có khối hỗn hợp kích thước khổng lồ, bên trong có dịch không đồng nhất. Trên phim X quang bụng cho thấy, những nốt nốt vôi hoá vùng khối u nên đã chỉ định phẫu thuật cho bệnh nhi.
Trẻ được hồi sức bù điện giải truyền dịch bù vào lượng nước mất do ọc ói và được các bác sĩ tiến hành phẫu thuật. Khi phẫu thuật, các bác sĩ ghi nhận khối u kích thước lớn chiếm hầu như trọn ổ bụng một bé sơ sinh với kích thước 12x6 cm. Đặc biệt, khối u dính vào dạ dày và một phần nằm trọn trong lòng dạ dày.
Ekip phẫu thuật tiến hành cắt bỏ một phần dạ dày chứa u và bóc toàn bộ u đưa ra ngoài cơ thể bé, khối u nặng khoảng 1 kg. Sau khi lấy u ra, các bác sĩ tiến hành khâu tạo hình lại dạ dày cho bé và đóng ổ bụng.
Hiện sau mổ bé dần cải thiện, vết mổ sạch, bụng xẹp hẳn, bé hiện bú tốt và rất háo hức bú.
Theo TS.BS Phạm Ngọc Thạch – Phó Giám đốc bệnh viện Nhi đồng 2, u quái dạ dày ở trẻ em cực kỳ rất hiếm gặp, đặc biệt ở trẻ sơ sinh. U quái ở trẻ em gặp nhiều nhất vùng cùng cụt cột sống 40%, kế tiếp là buồng trứng 25% và tinh hoàn 12%, não 5%, vùng tiêu hóa rất ít gặp nhất là dạ dày.
Theo y văn, tổng cộng trên thế giới chưa tới 100 ca bệnh u quái dạ dày được ghi nhận từ trước đến nay. Hiện tại, ở Việt Nam trên y văn chưa ghi nhận trường hợp nào u quái dạ dày ở trẻ sơ sinh.
U thường lành tính, tuy nhiên có thể gây ra tình trạng tắc nghẽn dạ dày, thiếu máu, vỡ dạ dày. Bệnh thường được biểu hiện bởi tình trạng trướng bụng, sờ thấy khối ở bụng, nôn ói, thiếu máu, suy hô hấp.
“Bệnh có thể được phát hiện sớm nếu thai kỳ được theo dõi đầy đủ hoặc khám tổng quát, tầm soát dị tật trẻ sau sinh. Khi phát hiện sớm, nhất là chẩn đoán tiền sản sẽ giúp chúng ta chủ động trong công tác chuẩn bị trước mổ. Tránh để trẻ rơi vào tình trạng nôn ói, mất nước nhiễm trùng làm cho cuộc phẫu thuật khó khăn hơn, đặc biệt với quá trình phục hồi sau phẫu thuật”, TS.BS Phạm Ngọc Thạch khuyến cáo.