Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, 5 tháng đầu năm nay, trị giá nhập khẩu nhóm hàng linh kiện và phụ tùng ô tô đạt gần 2,3 tỷ USD, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, riêng tháng 5, các doanh nghiệp nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô các loại tăng 11,3% so với tháng trước, với tổng giá trị lên đến gần 540 triệu USD.
Điều này cho thấy xu hướng nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô của Việt Nam tiếp tục chiều hướng tăng lên.
Các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ và Indonesia, chiếm tỷ trọng hơn 90% trong tổng trị giá trị.
Diễn biến trên không lạ khi mà các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô Việt Nam dù đã có sự gia tăng, song vẫn phát triển chậm cả về số lượng và chất lượng so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Bộ Công thương cho biết, Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các nhóm sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, nhất là các bộ phận, linh kiện quan trọng, thuộc hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái, yêu cầu công nghệ chế tạo ở mức cao…
Các phụ tùng linh kiện ô tô hiện đang sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là các phụ tùng thâm dụng lao động, công nghệ giản đơn, như ghế ngồi, kính, săm lốp, bánh xe…
Hiện nay, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít. Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, nhưng Việt Nam chỉ có chưa đến 100. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có chưa đến 150.
Điều này dẫn đến tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp. Mục tiêu đề ra là 30 - 40% vào năm 2020, 40 - 45% vào năm 2025 và 50 – 55% vào năm 2030, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%, trong đó Thaco đạt 15 - 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova (thông tin được cung cấp từ phía doanh nghiệp), thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra cũng như thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và Malaysia.
Dẫn kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc với kinh phí hỗ trợ hàng trăm triệu USD cho ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cũng cần dành nguôn lực đáng kể để cải thiện năng lực doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô.
Cụ thể là cần bố trí nguồn vốn xây dựng cơ bản nhằm xây dựng cơ sở vật chất để hình thành ít nhất 3 Trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ tại 3 miền cho các ngành công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
Các trung tâm này đóng vai trò là các Trung tâm kỹ thuật, máy móc dùng chung, cung cấp các dịch vụ chế tạo thử nghiệm, đo lường, kiểm định, chứng nhận chất lượng sản phẩm, tư vấn, chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ – trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, và các dịch vụ cải tiến doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cần bố trí đủ nguồn kinh phí sự nghiệp nhằm thực hiện Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ được phê duyệt tại Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 18 tháng 01 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ để triền khai hiệu quả các nội dung hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước.
Đồng thời, cần xây dựng các gói tín dụng ưu đãi cho phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, trong đó có công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, có thời hạn đến năm 2025; Thu hút đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ để thu hút đầu tư nguồn lực xã hội vào phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng bình quân của toàn ngành công nghiệp.