Điểm chung về những khó khăn mà các Dự án mang đến cho người dân vùng bị ảnh hưởng được ghi nhận từ việc nhiều chủ đầu tư thường nhanh chóng thu hồi đất đai, nhanh chóng triển khai công tác bồi thường - giải phóng mặt bằng (GPMB), xác lập ranh giới tách biệt để tổ chức sản xuất. Người dân mất tư liệu, mất việc làm, sống vất vưởng ngay bên cạnh nhà máy công nghiệp.
Ở Núi Pháo, lợi ích của Công ty gắn với lợi ích của người dân, của cộng đồng. Công ty có chính sách ưu tiên tuyển dụng cho người bị ảnh hưởng như là một phần trong chiến lược đảm bảo sinh kế. Bởi vậy mà ở Công ty có trình độ khai thác, chế biến khoáng sản Quốc tế như Núi Pháo nhưng luôn có tới trên 60% nhân lực là người dân địa phương.
Những người nông dân lam lũ với ruộng đồng trước đây giờ trở thành công nhân của đại công trường Núi Pháo. Thế hệ con em của người dân bị ảnh hưởng được tuyển dụng, đào tạo đã định hình được những vị trí cốt yếu trong doanh nghiệp. Chính vì vậy nên khi thực hiện cam kết của mình, những cán bộ mang sắc phục cam của Dự án luôn cận kề với dân, tìm hiểu, khảo sát và xây dựng kế hoạch tổ chức sản xuất cho người dân vùng bị ảnh hưởng.
Khẳng định giá trị, hiệu quả của sự hỗ trợ phục hồi kinh tế, Công ty đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tư vấn về việc làm, về cách sử dụng tiền đền bù đúng mục đích tại các xã trọng điểm vùng Dự án để nâng cao nhận thức cho người dân, cung cấp thông tin nhiều chiều và góp phần định hướng cho người dân biết mình cần phải làm gì để tránh những rủi ro khi sử dụng đồng vốn; chọn việc làm phù hợp với điều kiện, khả năng của bản thân và gia đình khi ruộng đất không còn.
Với khoảng 20 mô hình phục hồi kinh tế, người dân có thể chọn lựa và tham gia vào mô hình phù hợp như chăn nuôi nhím, lợn rừng, gà, bò, nhím, ong…; trồng nấm, su su, làm chè VietGap, chè hữu cơ, rau an toàn. Tính đến hết năm 2022, Công ty đã chi gần 4.000 suất phục hồi kinh tế, với số tiền là 23,209 tỷ đồng thông qua các chương trình đào tạo.
Những mô hình phục hồi kinh tế được xây dựng trên cơ sở bàn bạc, thống nhất giữa chuyên gia và cư dân bản địa (có cả những người đang làm việc tại Núi Pháo) đã ra đời và phát triển ổn định, bền vững.
Bà Đào Thị Thức (Giám đốc HTX chè Nhật Thức, xóm Khuôn 2, xã Phục Linh, huyện Đại Từ) cho biết: Chương trình phục hồi kinh tế của Núi Pháo đưa người dân có cơ hội đầu tiên là tiếp cận với thông tin mới về sản xuất. Tiếp đó là tiếp cận với các chuyên gia cũng như cơ quan quản lý Nhà nước trong từng lĩnh vực. Giá trị hỗ trợ để triển khai các mô hình phục hồi kinh tế mới chỉ thể hiện trách nhiệm mà doanh nghiệp cần phải thực hiện.
Người Núi Pháo từ lãnh đạo tới công nhân và đặc biệt là đội ngũ cán bộ cộng đồng với một tổ chuyên gia về phục hồi kinh tế còn thể hiện được lòng biết ơn, sự tri ân đối với cư dân địa phương đã tạo điều kiện cho Dự án hoạt động. Vì thế, họ trăn trở với mỗi mô hình kinh tế. Trên những nương chè, ruộng lúa, ở trong những chuồng trại chăn nuôi luôn thấp thoáng hình ảnh của cán bộ Núi Pháo cùng bà con thăm, kiểm tra cây cối, ruộng đồng, đánh giá sự sinh trởng, phát triển của đàn vật nuôi…
Đối với HTX chè Nhật Thức, lợi ích to lớn mà HTX nhận được đó chính là việc hình thành được cơ số các thành viên có nguyện vọng, có thông tin, có kỹ năng thực hành nông nghiệp tốt để dựng xây thương hiệu mạnh. Từ chỗ rón rén bước vào làm chè VietGap, đến nay, tổ hợp tác sản xuất chè hữu cơ do chị Thức làm tổ trưởng đã đưa sản phẩm chè Phục Linh song hành cũng các sản phẩm chè đặc biệt của chè Thái Nguyên. Chè Nhật Thức đã có 2 sản phẩm được chứng nhận sản phẩm OCOP 4 sao, 1 sản phẩm được chứng nhận OCOP 3 sao và 2 sản phẩm được chứng nhận đạt sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu.
Ông Nguyễn Văn Thường (Tổ trưởng tổ hợp tác nuôi ong mật, xã Tân Linh, huyện Đại Từ) chia sẻ: Người dân nuôi ong rải rác cả xã, cả huyện. Mà mục tiêu chỉ là tận dụng, làm thêm để tạo ra sản phẩm đủ dùng cho nông hộ. Công ty Núi Pháo đã nhìn thấy tiềm năng, cơ hội để sản phẩm mật ong của địa phương trở thành sản phẩm hàng hóa.
Người của Núi Pháo đã đề nghị lãnh đạo địa phương gom những hộ dân có số lượng thùng ong đủ lớn để thành lập tổ hợp tác. Kiến thức chăn nuôi được trang bị mới, tập huấn lại. Tư liệu được bổ sung, kỹ thuật được truyền dạy. Rất nhanh, sản phẩm mật ong Tân Linh đã được bán ra thị trường. 16 hộ thành viên của tổ hợp tác trước đây vốn chỉ có mật ong đủ dùng thì nay đã có nguồn thu từ hàng chục đến vài trăm triệu mỗi năm. Ông Thường phấn khởi triết lý, kể cũng lạ, người Núi Pháo đã đi trước dẫn đường, cán bộ làm mỏ lại giúp nông dân cấy rau, trồng chè, chăn nuôi. Thế mà mô hình nào cũng thành công cả.