Trám đen, trám trắng

Một trong những thức quà ngon từng được người Hà Nội chờ đón mỗi khi mùa thu về, đấy là trám, và những món ăn được chế biến từ loại quả giàu phong vị này...

"Trong ký ức của tôi, trám đen về Hà Nội bắt đầu không phải từ chợ, mà từ những bà hàng gánh trám bán rong, như là bán một trong những thức quà thời trân của mùa thu Hà Nội..."

Trám có hai loại: Trám đen và trám trắng. Trám trắng (còn gọi là trám xanh) thường hay xuất hiện trước trám đen ở những ngôi chợ Hà Nội. Và vụ trám trắng, hình như cũng kéo dài hơn vụ trám đen thì phải. Vào cữ cuối tháng 5, đầu tháng 6 âm lịch, nắng nóng vẫn đang rừng rực, đội nón ra chợ đã thấy lác đác có những hàng trám trắng. Cho đến tháng 10 âm lịch, trời đã chớm đông, thi thoảng vẫn bắt gặp. Riêng trám đen, thì cứ phải sang tháng 7, tháng 8 âm lịch, khi gió heo may bắt đầu nổi, mới thấy về chợ ùn ùn. Nhưng chỉ sang tháng 9 âm lịch là đã vãn, tịnh chả còn hàng nào. Mà dẫu có, thì trông trái trám đã nhăn nhúm quắt queo. Chả lấy đâu vẻ căng mọng, tươi tốt như kỳ chính vụ. 

Kho cá, dầm tương hay dầm mắm. Đó là 3 món ngon từ trám trắng mà sinh thời mẹ tôi thường làm mỗi mùa trám về.

Trám trắng, một khi đã xuống đến chợ Hà Nội, thì hầu như đều đã được luộc qua, bỏ hạt và cắt đôi. Trông hình dáng chúng như những chiếc thuyền bé xinh, rất đáng yêu. Gọi là trám trắng (trám xanh), là để phân biệt với trám đen. Chứ thực ra màu trám trắng nó vàng hanh hanh như màu cốm mộc. Trám càng dầy cùi thì càng ngon. Trám mỏng cùi, mẹ tôi lắc đầu ngay. Dù các bà hàng có tốt mời đến thế nào đi chăng nữa.

Nếu muốn làm trám dầm, mẹ tôi chỉ luộc trám trắng qua nước sôi cho sạch sẽ, rồi ngâm lại nước sôi để nguội cho giòn. Sau đó, vớt ra, dầm với chút nước mắm, cùng với đường và ớt tươi. Để từ sáng đến chiều là ăn đã vừa vặn rồi đấy. Có khi mẹ thay mắm bằng tương, vì bà ngoại tôi thích vị ngọt của tương. Khen là nó dịu hơn nhiều so với vị nước mắm.  

Kho cá, mẹ tôi rửa qua trám trắng, lót xuống kín đáy chiếc niêu đất. Sau đó là xếp một lượt những khúc cá đã đánh vẩy, làm sạch. Tiếp đó là một lượt những miếng thịt ba chỉ cắt khúc nhơ nhỡ. Rồi lại một lượt trám, một lượt cá, một lượt thịt nữa. Trên cùng vẫn lại thêm lượt trám. Đoạn, bà lấy chai tương nếp Cự Đà rót ngập xăm xắp lượt trám trên cùng. Tưới thêm một chút mật mía. Ướp như vậy chừng nửa giờ đồng hồ rồi bà cho lên bếp mùn cưa đun sôi to. Sau đó hạ lửa, đun liu riu đến lúc nước tương cạn sanh sánh dưới đáy nồi là được. Kho từ sáng thì chiều may ra mới có cá ăn. Mùi cá thơm bay khắp nhà, bay lên tận gác hai, khiến chị em chúng tôi cứ chạy lên chạy xuống hít hà, mong cho sớm đến bữa cơm tối. 

Mà ngày trước, nhà tôi hầu như không ăn cá kho khô, chỉ ăn cá kho nhỡ. Bởi vì mẹ tôi còn tận dụng nước cá kho cho cả nhà chấm rau, chấm dưa. Ngon bằng vạn là chấm cái nước mắm mậu dịch loại 3 đun thêm muối khắm lằm lặm. Cái mùi mà nhà nào ở Hà Nội cũng thi thoảng tra tấn hàng xóm mỗi năm đôi ba phiên như thế. Nói là thích trám kho cá hơn trám dầm. Chứ chị em chúng tôi cũng vẫn chỉ nhăm nhăm thịt cá. Trám có khác gì thức ăn độn đâu. Tôi nghĩ bụng thế. Nhưng chết nỗi, cái vị cá, vị thịt kho lẫn trám, nó ngon hơn một bậc cá thịt kho bình thường. Bởi vì độ bùi, độ ngậy đều hơn hẳn. Vị chua của trám trắng át phăng đi cái mùi tanh của cá. Lúc này, mẹ và dì có dỗ ăn thêm miếng trám, chị em tôi cũng dễ xiêu lòng. Miếng trám chắc chắc, bùi bùi, ngấm vị ngon của thịt cá và tương nếp. Dù là ăn với cơm độn ngô hay cơm độn mỳ, cũng đánh veo veo ba bốn bát.

Gần Tết, trên phố Hàng Đường có món ô mai trám, rắc thêm cam thảo, ớt khô, ăn không quá chua như ô mai sấu và ô mai mơ. Cũng lạ miệng với đám tuổi ô mai Hà Nội một thời. Chị em tôi cũng bắt chước tự làm ô mai trám. Nhưng không thể ngon giòn bằng mua ở hàng. Lại còn hơi chan chát nữa. Chưa rõ dân Hàng Đường có bí quyết gì bên trong cách làm ô mai trám vậy? Cho đến giờ tôi vẫn chưa khám phá nổi.

Trong ký ức của tôi, trám đen về Hà Nội bắt đầu không phải từ chợ, mà từ những bà hàng gánh trám bán rong, như là bán một trong những thức quà thời trân của mùa thu Hà Nội. Bởi hồi bé, chúng tôi đâu biết trám có nguồn gốc từ những tỉnh trung du miền núi như Lạng Sơn, Bắc Giang, Phú Thọ, Cao Bằng, Tuyên Quang…  Các bà hàng bán trám chân đất, áo nâu, khăn vấn, quần chân què rộng thùng thình. Thay vì hai đầu gánh hai chiếc thúng như các bà bán rươi, thì các bà gánh hai chiếc chậu sành da lươn Phù Lãng nặng chịch, giống như gánh hàng của các bà bán ốc mút. Trong chậu là một núi trám đen nhô cao trên nền nước om trám tối sẫm. Hai bên cạnh chậu trám là hai bó lá sen già và hai bó rơm nếp còn vương đôi hạt thóc lép. Các bà vừa gánh trám trên phố vừa rao: 

- Trám ơ! Ai trám ơ!

Hễ ai gọi mua, mà đa phần khách là đám trẻ lau nhau, thì các bà dừng lại. Đầu tiên là các bà cuốn một góc chiếc lá sen thành chiếc bồ đài nhỏ, đong trám bằng chiếc muôi nhôm đổ vào bồ đài, một chục hay hai chục trám. Rồi bà rút sợi rơm buộc xoáy từ dưới lên trên, tay kia đưa thêm cho khách một túi giấy báo gói vừng rang be bé. Rẻ lắm, tiền suất trám chỉ ngang ngang tiền suất ốc mút chi đó thôi. Tôi nhớ mang máng vậy. Xưa, người bán trám đếm chục đếm trăm, chứ không bán cân bán lạng như lâu nay. 

Trám đen chấm muối vừng, ăn chỉ có no mà không có chán. Bùi bùi, đậm đậm, thơm thơm. Ăn hết cùi trám, còn lấy gạch thi nhau đập hạt trám mà gặm lấy gặm để cái nhân trám trắng tinh, ngon hết biết. Có đứa sốt ruột, ghè cả vào tay, đau chết điếng. Nếu không đập hạt thì vác dao phay ra chặt hạt trám làm đôi, lấy tăm khều nhân nhấm nháp cũng quá ngon.

Nhân ấy, kỳ công cho vào làm nhân bánh nướng bánh dẻo Trung thu thì miễn bàn. Xưa cũng chả có mấy đâu. Bây giờ thì tiệt nọc. Nhưng ối đứa vác dao chặt hạt trám vỉa hè, không may dao bị mẻ lưỡi thì không trốn nổi cái cốc lủng đầu của các ông bố bà mẹ. Bọn con trai chả cần ăn trám lẫn nhân, chỉ chăm chăm chọn hạt trám nào to tròn đều đẹp để làm con quay trám buộc dây đánh tít mù trên vỉa hè hay sân trường xanh ôm bóng lá bàng. Ôi sao mà nhớ!  

Thi thoảng có bà khách cất hàng từ Bắc Giang về, đem biếu nhà một vài cân trám đen, vỏ còn tươi nguyên màu phấn trắng. Mẹ tôi hào phóng cho cả nhà thưởng thức bữa quà trung du thoải mái. Bà sai các con rửa sạch, vò xát vỏ trám cho mỏng bớt. Rồi bà đun nước sôi già, rót nước sôi ra chiếc âu sứ to, hòa thêm dúm muối. Khi nước nguội bớt còn chừng độ 70-80 độ, bà mới đổ trám vào âu và đậy nắp kín. Chừng một vài giờ là được. Bố tôi hôm ấy được bữa nhắm rượu cùng trám om chấm muối vừng. Ông gật gù nâng chén kể chuyện xưa nhà vẫn chạy xe tải vận chuyển hàng trong kháng chiến chống Pháp lên vùng trung du, miền núi. Trám đen, trám trắng đầy rừng. Dân toàn cho không, ai muốn lấy bao nhiêu cũng được, chứ không bán như bây giờ. 

Bớt lại ít trám đã om, mẹ tôi gỡ lấy thịt cùi, phi hành mỡ chưng lên với đôi ba lạng thịt băm, chưng thật mặn với nước mắm, rắc chút hạt tiêu để dành ăn dần trong các bữa sau. Trám chưng như thế ăn với cháy cơm thì thôi rồi, khỏi nói. Mẹ tôi dặn:

- Om trám phải nhớ cẩn thận. Nước sôi quá cũng không được, trám sẽ cứng như đá, chỉ có mà đem vất đi. Nước hơi nguội chút, thì trám sẽ nát bét. Bỏ thì thương, vương thì tội.  

Thế mới kỳ lạ chứ! Nóng cứng, nguội nát. Sau này tôi ra riêng, cũng có lúc om trám. Mà phải nói là không được tự tin lắm. Bữa được thì khoe lấy khoe để. Bữa hỏng thì giấu nhèm nhẹm, len lén mà đổ đi. Bạn bè hỏi đến, kêu là bữa nay chợ không có trám. Khổ thế đấy! 

Lại còn cái món trám đen nhồi thịt hấp nữa chứ! Trám om xong để nguội, cắt đôi, bỏ hạt, thành những chiếc thuyền thoi vỏ tím, lòng vàng nho nhỏ. Thịt nạc vai mỡ dắt băm vụn cùng mộc nhĩ, nấm hương, trộn nước mắm, hạt tiêu. Đem viên lại nhỏ tí xíu, nhồi vào hai mảnh trám rồi úp lại như trái trám còn nguyên. Sau đó, bỏ những trái trám đó lên chõ xôi hấp chín, bày ra đĩa, rắc rau mùi, ăn cùng cơm nóng. Nếu muốn màu mỡ hơn, thì đem những trái trám đã hấp ấy, rán lên trong chảo mỡ. Như thế thì ăn quả là thơm hơn, nhưng có lẽ là hơi ngấy một chút. 

Rồi thì món xôi trám chấm muối vừng, cũng là ngon đến ngỡ ngàng. Có gì đâu, cũng ngâm gạo thổi xôi như bình thường. Trong khi chờ xôi chín, thì phi chảo hành mỡ, đổ vài lạng thịt lợn vai mỡ dắt băm nhỏ vào đảo lên, rắc thêm chút hạt tiêu xay. Đoạn, đổ chỗ cùi trám đã bóc sẵn, băm nhỏ vào xào tiếp. Trám này thường đã rất mặn. Nên xào với thịt không mắm muối và cho lẫn xôi không mắm muối, đánh đều lên, là sẽ vừa vặn. Cũng có nhà thổi xôi trám chỉ có nếp và trám. Cho là ăn như thế mới nguyên thủy, mới thuần vị.

Bây giờ, tuổi đã cao, tôi thi thoảng vẫn kho cá cùng trám thịt. Mà lạ thật, tôi rồi cũng giống mẹ khi xưa từ lúc nào chả nhớ, lại thích ăn miếng trám hơn cả miếng thịt hay miếng cá. Khác hẳn lúc còn trẻ con. Giật mình, lại nghĩ những đứa con tôi, cũng chả đứa nào ỏ ê món trám, mặc dù mẹ ra sức thuyết minh rằng bùi, rằng thơm, rằng ngon. Mai sau rồi thì sẽ ra sao nhỉ? Vừa ăn vừa ngẫm nghĩ. Mới biết, thưởng thức miếng ngon có khi phải học cả đời, chứ phải đâu là một đôi bữa hay dăm ba năm.

Văn hóa

Bộ đội Trường Sơn đẩy mạnh công tác hậu cần cho chiến trường miền Nam chống Mỹ, cứu nước
Văn hóa - Thể thao

Tác chiến hiệp đồng binh chủng quy mô lớn

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, công tác bảo đảm hậu cần đóng vai trò quan trọng; lần đầu tiên trong lịch sử, Quân đội ta huy động lực lượng lớn, hiệp đồng quân, binh chủng tham gia chiến dịch trên 5 hướng tiến công.

Tổng hợp luyện diễu binh, diễu hành lần thứ hai
Văn hóa - Thể thao

Tổng hợp luyện diễu binh, diễu hành lần thứ hai

Tối 22.4, tại trục đường Lê Duẩn, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh, Tiểu ban diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025) tổ chức tổng hợp luyện lần cuối trước khi sơ duyệt và tổng duyệt cấp Nhà nước của các lực lượng tham gia diễu binh, diễu hành trong Lễ kỷ niệm.

Festival Phở 2025: Sự kiện văn hóa nổi bật trên hành trình công nhận di sản của UNESCO
Văn hóa

Festival Phở 2025: Sự kiện văn hóa nổi bật trên hành trình công nhận di sản của UNESCO

Festival Phở 2025 đã chính thức khép lại, để lại trong lòng người tham dự những dư âm khó phai về một sự kiện văn hóa đậm chất Việt. Không chỉ là một lễ hội ẩm thực, Festival Phở 2025 còn là một hành trình tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống, lan tỏa tinh thần Việt Nam tới cộng đồng quốc tế. Với sự tham gia của hàng nghìn khách du lịch và thực khách trong nước, ngoài nước, lễ hội đã khẳng định vị thế của phở - món ăn quốc hồn quốc túy trên bản đồ ẩm thực toàn cầu, đồng thời khắc họa sâu sắc câu chuyện về con người, lịch sử và bản sắc Việt Nam.

Cuộc thi vẽ tranh “Thế giới quanh tôi”: Chắp cánh tài năng trẻ và người khuyết tật
Văn hóa - Thể thao

Cuộc thi vẽ tranh “Thế giới quanh tôi”: Chắp cánh tài năng trẻ và người khuyết tật

Từ ngày 22.4 - 2.5, tại sảnh chính của Khách sạn Pan Pacific Hà Nội, số 1 đường Thanh Niên, Ba Đình, Hà Nội, trưng bày các tác phẩm xuất sắc của cuộc thi vẽ tranh “Thế giới quanh tôi”, truyền cảm hứng cho tài năng trẻ và người khuyết tật dám ước mơ và theo đuổi đam mê hội họa.