Cần thiết sửa đổi
- Bối cảnh hiện tại đặt ra những thách thức gì đối với việc hoàn thiện hành lang pháp lý về KH-CN, thưa Thứ trưởng?
- Sau 10 năm triển khai, bối cảnh thế giới đã thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là sự phát triển nhanh chóng của KH-CN và sự bùng nổ của công nghệ số. Những thay đổi này đã đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu và ứng dụng công nghệ. Các quốc gia đầu tư mạnh vào KH-CN đã nhanh chóng vượt qua bẫy thu nhập trung bình để trở thành quốc gia thu nhập cao. Đặc biệt, sự gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) và KH-CN ngày càng chặt chẽ, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ không thể tách rời việc ứng dụng kết quả vào cuộc sống. Cùng với đó, khái niệm "nghiên cứu, phát triển" đã dần được thay thế bằng "nghiên cứu phát triển và ĐMST." Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các tập đoàn công nghệ lớn trên thế giới, hoạt động này không chỉ diễn ra tại các viện nghiên cứu, trường đại học mà còn phổ biến trong các doanh nghiệp (DN). Nhiều DN thậm chí đầu tư vào nghiên cứu cơ bản để tạo nền tảng cho các phát minh và ứng dụng công nghệ trong kinh doanh.
Thứ hai, trong mười năm qua, các Văn kiện định hướng chỉ đạo của Đảng đã nhiều lần đề cập đến phát triển KT-XH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong hầu hết các Văn kiện đó, vai trò của KH, CN và ĐMST luôn được khẳng định là một nội dung quan trọng “KH-CN thực sự là quốc sách hàng đầu”; “KH, CN và ĐMST là một trong các đột phá chiến lược quan trọng nhất tiến tới phát triển nhanh, bền vững”. Vì vậy, các nội dung này cần được thể chế hóa kịp thời vào trong Luật.
Thứ ba, sự phát triển KT-XH của Việt Nam đã diễn ra mạnh mẽ, với sự đóng góp quan trọng từ doanh nghiệp (DN) nhà nước và DN tư nhân. Để các DN có thể tiếp tục phát triển, việc đầu tư vào KH-CN là cần thiết.
Với xu thế này, Luật Khoa học và Công nghệ cần được sửa đổi để tăng cường việc huy động nguồn đầu tư, sự quan tâm và nguồn nhân lực từ khu vực DN cho các hoạt động nghiên cứu và phát triển (NC-PT) và để theo kịp xu thế chung của thế giới.
Tăng cường nguồn nhân lực KH, CN và ĐMST
- Con người đóng vai trò then chốt và quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là mục tiêu quan trọng của Chiến lược KH,CN và ĐMST đến năm 2030. Vậy, Luật sửa đổi sẽ đưa ra những giải pháp như thế nào để tăng cường nguồn nhân lực NC-PT, nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược này, thưa Thứ trưởng?
- Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, để phát triển dựa trên KH, CN và ĐMST, số lượng cán bộ NC-PT cần đạt khoảng 12 người/một vạn dân. Để đạt được mục tiêu tăng cường số lượng cán bộ nghiên cứu phát triển cũng như nâng cao mức đầu tư xã hội, cần phải thực hiện các cải cách toàn diện, bao gồm việc tích hợp các hoạt động NC&PT vào trong Luật.
Nhìn lại lịch sử phát triển của các quốc gia, chúng ta có thể thấy, giai đoạn đầu, hầu hết lực lượng NC-PT thường tập trung trong khu vực công, tức là các viện nghiên cứu, trường đại học công lập do nhà nước thành lập. Kinh phí cho NC-PT chủ yếu cũng được cấp từ ngân sách nhà nước.
Để tăng cường đầu tư cho KH-CN, các quốc gia phát triển đã tìm cách nâng cao tỷ lệ đầu tư từ xã hội. Thông thường, tỷ lệ đầu tư từ nhà nước sẽ giảm từ mức 100% xuống còn khoảng 30%, trong khi tỷ lệ đầu tư từ xã hội sẽ tăng lên khoảng 70%.
Luật sửa đổi dự kiến trình Chính phủ và sau đó trình Quốc hội nhằm mục tiêu tăng số lượng cán bộ nghiên cứu từ 7 lên 12 người/một vạn dân. Giải pháp là theo mô hình các quốc gia đã thực hiện, nhằm thúc đẩy đầu tư từ xã hội, DN và khu vực tư nhân vào KH-CN. Đầu tư này sẽ bao gồm tài chính và việc xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển, các viện nghiên cứu, cũng như hình thành các đội ngũ NC-PT trong các DN.
Tuy nhiên, không thể kỳ vọng rằng DN sẽ ngay lập tức đầu tư vào KH-CN bởi đầu tư vào KH-CN thường mang tính rủi ro và không ngay lập tức đem lại lợi nhuận, trong khi mục tiêu chính của DN là đạt được lợi nhuận và duy trì sự tồn tại. Hiện nay, hầu hết DN Việt Nam, ngoại trừ một số tập đoàn lớn, chưa có động lực hoặc sự sẵn sàng để đầu tư vào KH-CN do lo ngại lợi ích từ đầu tư này sẽ chỉ thu được trong một khoảng thời gian dài, chứ không phải ngay lập tức.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 457/QĐ-TTg ngày 28/5/2024 thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng dự án Luật Khoa học và Công nghệ (sửa đổi) do Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang làm Trưởng ban. Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang đã ký Quyết định 84/QĐ-BCĐ ban hành Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo và Tổ chuyên gia liên ngành giúp việc cho Ban Chỉ đạo.
Vì vậy, Luật sửa đổi cần có những chính sách để tăng cường thu hút đầu tư từ xã hội. Trước tiên, Nhà nước sẽ triển khai các chương trình hỗ trợ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kết quả nghiên cứu và kết nối các trường đại học với DN.
Thứ hai, cần thiết lập các cơ chế khuyến khích, chẳng hạn như ưu đãi thuế và giảm tiền thuê đất cho các DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu khó khăn.
Tôi cho rằng, để đạt được mục tiêu tăng cường số lượng cán bộ nghiên cứu và nguồn đầu tư xã hội, Luật cần được sửa đổi toàn diện, bao gồm việc tích hợp các hoạt động NC&PT của toàn xã hội vào trong Luật, không chỉ dựa vào các quy định hiện tại.
- Việc sửa đổi Luật nhằm thúc đẩy sự phát triển của hệ thống ĐMST quốc gia, trong đó DN là trung tâm và viện nghiên cứu cũng như trường đại học đóng vai trò là các chủ thể nghiên cứu mạnh. Vậy, những chính sách nào sẽ được đề xuất trong Luật sửa đổi sắp tới để hỗ trợ các đối tượng này, thưa Thứ trưởng?
- Tôi muốn nhấn mạnh rằng trong các đề xuất sửa đổi Luật đã đưa ra một nhóm chính sách và vấn đề mới. Theo đó, các trường đại học đang dần trở thành những chủ thể nghiên cứu mạnh, tương đương với các viện nghiên cứu. Để phát triển hoạt động KH-CN trong các trường đại học, cần có nội dung nghiên cứu, nội dung hoạt động, và thậm chí là kinh phí đầu tư cho các trường đại học.
Ví dụ, chúng ta cần có những chương trình đào tạo nghiên cứu sinh bằng nguồn kinh phí từ KH-CN. Thực tế, nhiều quốc gia trên thế giới coi lực lượng nghiên cứu sinh là lực lượng nghiên cứu chủ yếu. Bởi vì nghiên cứu sinh ở độ tuổi trẻ trung, sáng tạo nhất và say mê nhất trong công việc. Do đó, chúng ta cần xây dựng các hệ thống chương trình đào tạo nghiên cứu sinh, đồng thời coi họ là những nhà nghiên cứu, là người lao động nghiên cứu chứ không chỉ là người đi học.
Ngoài ra, cần có các chương trình hỗ trợ sau khi nghiên cứu sinh hoàn thành chương trình học. Điều này giúp họ có thể tiếp tục tự chủ trong việc triển khai các hoạt động nghiên cứu. Đồng thời, cần xây dựng các trung tâm xuất sắc về KH-CN, kết nối chặt chẽ giữa nghiên cứu và đào tạo. Chúng tôi rất mong muốn đề xuất tách biệt đội ngũ nghiên cứu của các viện nghiên cứu và trường đại học khỏi quan niệm coi họ như cán bộ của đơn vị sự nghiệp công lập. Giống như ở các nước trên thế giới, giảng viên và nghiên cứu viên được khuyến khích tham gia điều hành các DN do viện nghiên cứu và trường đại học thành lập, dựa trên kết quả nghiên cứu và sở hữu trí tuệ của họ. Điều này giúp đưa hoạt động ĐMST từ DN đến gần hơn với trường đại học, thậm chí ngay trong trường đại học.
Chúng ta cũng khuyến khích thành lập các DN khởi nguồn (spin-off) trong trường đại học. Những DN này không chỉ tạo nguồn thu cho trường đại học mà còn giúp thương mại hóa các kết quả nghiên cứu.
Đồng bộ các quy định của Luật với các chính sách tài chính hiện hành
- Ngoài vấn đề về quỹ, cơ chế đầu tư tài chính cho KH-CN hiện còn nhiều bất cập và chưa phù hợp giữa quy định của Luật với pháp luật về tài chính, bao gồm các lĩnh vực như đầu tư, đấu thầu, quản lý và sử dụng tài sản công. Vậy, Bộ đã đề xuất những giải pháp gì để giải quyết các bất cập này, thưa Thứ trưởng?
- Ban soạn thảo cũng đã tiến hành nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng toàn bộ hệ thống pháp luật, bao gồm rất nhiều luật liên quan, không chỉ giới hạn trong Luật KH-CN. Tuy nhiên, các quy định này chưa thực sự đi vào cuộc sống cũng như chưa khuyến khích được các DN, đặc biệt là DN nhỏ và vừa, đầu tư vào KH-CN. Nguyên nhân do thiếu sự đồng bộ giữa pháp luật về KH-CN và pháp luật về tài chính.
Việc đầu tiên cần giải quyết là làm thế nào để đồng bộ các quy định của Luật Khoa học và Công nghệ với các chính sách tài chính hiện có, nhằm tận dụng tối đa tất cả các chính sách này.
Vấn đề thứ hai là, khi đã có đầu tư và nguồn lực, cần phải sử dụng một cách hiệu quả, thông thoáng và nhanh chóng. Để đạt được điều này, ngành KH-CN cần phải sửa đổi mạnh mẽ các quy định liên quan đến nhiệm vụ KH-CN, đề tài, dự án, phân cấp, phân quyền, cải cách thủ tục hành chính... Mục tiêu là để công khai, minh bạch, từ đó chọn lựa những đề tài và nhiệm vụ tốt nhất một cách nhanh chóng và thuận lợi.
Thêm vào đó, cần phải điều chỉnh các quy định về mua sắm và đấu thầu khi sử dụng kinh phí đầu tư cho công nghệ, bao gồm cả kinh phí đầu tư công của Nhà nước và kinh phí của DN. Điều này sẽ khuyến khích các cơ chế hỗ trợ của Nhà nước. Cần thiết phải nghiên cứu các vấn đề mới, công nghệ lõi, và thậm chí mua các kết quả nghiên cứu và sáng chế từ nước ngoài, sau đó chuyển giao cho DN để họ có thể sử dụng và phát triển.
Một vấn đề quan trọng khác là nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của DN thông qua các biện pháp cụ thể. Để làm được điều đó, trước tiên, cần tập huấn và đào tạo nhân lực về chuyển giao công nghệ và đổi mới công nghệ. Đồng thời, cần đưa các nhà khoa học vào DN để hỗ trợ và nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ. Khi cải tiến được máy móc, họ sẽ có khả năng NC-PT công nghệ mới.
- Hiện nay, việc tìm tiếng nói chung giữa các nhà quản lý, nhà đầu tư tài chính và nhà khoa học đang gặp nhiều khó khăn. Các nhà quản lý thường yêu cầu chi tiêu và quản lý ngân sách phải được thực hiện rất chặt chẽ, với việc thu chi và báo cáo thường xuyên. Trong khi đó, các nhà khoa học cho rằng lĩnh vực KH-CN thường có nhiều rủi ro, độ trễ và tính mạo hiểm, không phải lúc nào cũng cho kết quả ngay lập tức. Thứ trưởng có ý kiến gì về nhận định này?
- Nhận định này là phù hợp, đặc biệt khi xã hội và đất nước ngày càng phát triển. Những vấn đề mới phát sinh không thể được giải quyết ngay lập tức mà cần sự đồng thuận từ tất cả các lĩnh vực. Mỗi lĩnh vực đều mong muốn hoàn thành trách nhiệm của mình và chia sẻ với những người làm công tác tài chính, để từ đó họ có thể hoàn thành công việc của mình một cách hiệu quả. Họ chắc chắn mong muốn ngân sách được chi tiêu một cách hiệu quả nhất, đúng đắn, không thất thoát hay lãng phí, và không để tồn đọng kinh phí. Do đó, cần tìm cách cân bằng giữa hoạt động KH-CN với những yêu cầu này. Đây là một trong những nhiệm vụ mà chúng tôi đang thực hiện thường xuyên.
Ví dụ về vấn đề quản lý tài sản công, cần chia sẻ quan điểm rằng kinh phí nhà nước đầu tư cho kết quả KH-CN nên được xem là nguồn đầu tư lâu dài. Thay vì yêu cầu thanh toán ngay, nên giao kinh phí cho các đơn vị chủ trì và đơn vị sản xuất để họ có thể đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh. Khi các đơn vị này tạo ra việc làm và đóng thuế cho Nhà nước, chúng ta sẽ thu hồi nguồn vốn qua thuế và tái đầu tư cho hoạt động KH-CN. Để đạt được điều này, cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan KH-CN và cơ quan tài chính để hiểu nhau và phối hợp hiệu quả.
Chúng tôi dự kiến sẽ đề xuất trong Luật các quy định về việc xác định cái gì là tài sản và cái gì không phải là tài sản trong kết quả KH-CN. Ví dụ, những kết quả đã được công bố rộng rãi và trở thành tri thức của nhân loại không thể coi là tài sản riêng được. Chúng tôi tin rằng việc chia sẻ quan điểm này sẽ giúp điều chỉnh hành lang pháp lý của Luật KH-CN cũng như các luật khác, để chúng trở nên phù hợp và hoạt động hiệu quả hơn, từ đó tạo ra một môi trường thông thoáng cho hoạt động KH,CN và ĐMST.
- Xin cảm ơn Thứ trưởng!