Phát biểu khai mạc, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường cho biết,Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái đất tăng không quá 1,5oC tại COP21, giảm phát thải ròng carbon của quốc gia về 0 vào năm 2050 tại COP26. Cam kết này được thống nhất trong chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Do đó, nghiên cứu "Đánh giá tổng thể việc sản xuất hydro xanh từ các nguồn năng lượng mặt trời và năng lượng gió và các tiềm năng sử dụng hydro xanh ở Việt Nam" được thực hiện với mục tiêu hỗ trợ cho các bên liên quan của Việt Nam (cơ quan quản lý Nhà nước, nhà đầu tư và các tổ chức trung gian, nhà tài trợ, chuyên gia…) có thêm được góc nhìn tổng thể về vai trò của hydro xanh, cùng các luận cứ cần thiết khi đưa ra quyết định.
Trên cơ sở đó, giúp quá trình xây dựng và thực thi các cơ chế, chính sách phát huy hiệu quả trong hỗ trợ phát triển ứng dụng, sản xuất hydro xanh cho mục đích giảm phát thải khí nhà kính và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng sạch ở Việt Nam. Kết quả của dự án sẽ là bước khởi đầu cho nhiều nghiên cứu, hợp tác tiếp theo giữa Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và các đối tác trong nước về vấn đề này, trong đó có Viện Năng lượng.
Cũng theo Phó Viện trưởng Viện Năng lượng Lê Việt Cường, nghiên cứu đã tập trung vào các nội dung: Tính toán về nhu cầu hydro và ammonia xanh cho các ngành kinh tế Việt Nam đến năm 2050, tiềm năng sản xuất hydro xanh ở 2 vùng tiềm năng là vùng duyên hải Nam Trung Bộ và khu vực Tây Nam Bộ, tiềm năng giảm phát thải CO2 khi sử dụng hydro xanh đến năm 2050 cho lĩnh vực năng lượng. Báo cáo nghiên cứu cuối cùng sau khi được hoàn thiện sẽ được UNDP và Viện Năng lượng công bố tại hội thảo tiếp theo vào thời điểm phù hợp.
Về phía UNDP, Phó trưởng đại diện thường trú tại Việt Nam Patrick Haverman thông tin, hydro xanh được coi là năng lượng không carbon, có thể lưu trữ năng lượng, sau đó được giải phóng một cách có kiểm soát ở nơi khác giống như với pin lithium lưu trữ điện.Hydro xanh rất hữu ích trong việc chống lại biến đổi khí hậu vì có thể thay thế nhiên liệu hóa thạch trong các ứng dụng mà quá trình khử cacbon phức tạp như vận tải hàng hải và hàng không hoặc các quy trình công nghiệp nhất định.
Trong khi đó, để đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn mạnh của Việt Nam, nền kinh tế lại gặp các thách thức vì nhu cầu tiêu thụ năng lượng tăng với tốc độ khoảng 10 đến 12% hàng năm.
Than đá và dầu sẽ tiếp tục là các loại nhiên liệu chính trong sản xuất điện thập kỷ tới và đây là các tác nhân chính của khủng hoảng khí hậu. Do đó, ngành năng lượng vẫn sẽ phát thải tới khoảng 70% tổng lượng phát thải khí nhà kính vào năm 2030.
Để thực hiện thành công các mục tiêu này, ông Patrick Haverman cũng nhấn mạnh về sự đóng góp tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa từ năng lượng hydro xanh, với tiềm năng phát triển trong thời gian tới.