|
Nguyễn Gia Thiều xuất thân trong gia đình võ quan, quê Liễu Ngạn, Thuận Thành, Bắc Ninh. Cụ nội là Bỉnh quận công Nguyễn Gia Đa phục vụ trong đội cấm binh phủ chúa. Ông nội là Siêu quận công Nguyễn Gia Châu từng nhiều năm trấn thủ Cao Bằng và Nghệ An, được chúa Trịnh ban cho tước lộc “chúa lưu đồn”. Cha là Đạt Vũ hầu Nguyễn Gia Ngô, lấy quận chúa Quỳnh Liên (Trịnh Thị Ngọc Tuân), con thứ sáu chúa Trịnh Cương. Các chú cũng đều là tướng võ. Bản thân Nguyễn Gia Thiều cũng là tướng võ, nhiều lần đem quân đánh dẹp các nơi, được phong tổng binh Ôn Như hầu. Nguyễn Gia Thiều có mười một em trai đều làm tướng và nhiều người cũng được phong tước hầu. Sự nghiệp võ tướng của Nguyễn Gia Thiều đáng kể nhất là công cuộc dẹp loạn vùng Tây Bắc, thu được mười châu biên viễn về lại với quốc thổ rồi được lưu lại cai quản nơi đó.
Từ tướng võ trở thành tác gia văn học viết bằng chữ Nôm tiêu biểu không thể không kể đến môi trường sáng tác ngay từ gia đình, trong đó có Tao đàn Tứ Trai do ông sáng lập gồm bốn người em ruột và ông là người đứng đầu.
Ông nội Siêu quận công trấn thủ Nghệ An có chủ trương hòa ước với tướng Đàng Trong, do hai người vốn cùng dòng họ chi trên chi dưới thời cùng Hưng quốc công Nguyễn Kim dấy nghĩa trung hưng nhà Lê. Có kẻ sàm tấu khiến chúa Trịnh có lúc phải ngờ vực có lòng khác. Siêu quận công có bài thơ giãi bày nỗi lòng viết bằng chữ Nôm còn lưu lại đến nay: Du thưởng Linh Sơn tự/ Vâng lệnh hai lần trấn Nghệ An/ Nhàn du tập phúc cảnh Linh San/ Tư bề ngất thắm non nương tục/ Một vũng trong xanh nước rửa oan/ Gió cuốn hương nghê lồng bảo tọa/ Trăng soi gương thỏ giãi thiền quan/ Từ bi cảnh ấy thênh thênh rộng/ Bút hứng nhường bao mặc thế gian.
Người cha Đạt Vũ hầu làm quan đến chức trấn thủ Thái Nguyên nhưng lại đặc biệt ham thích thơ ca quốc âm và có tư tưởng lánh đời khi lấy hiệu là Di Lạc (vui vẻ di dưỡng tinh thần, cũng là tên vị Phật). Đạt Vũ hầu làm hàng nghìn bài thơ quốc âm thường thiên về thế sự có ý khuyên răn vì ông từng giữ chức Nhật giảng dạy thế tử Trịnh Sâm.
Hẳn Đạt Vũ hầu có ảnh hưởng lớn đến không khí sáng tác thơ ca của con cái, nhất là người con trưởng Nguyễn Gia Thiều. Chuyện gia đình kể thời nhỏ Nguyễn Gia Thiều cùng mẹ ra thăm vườn cây sau bão, thấy cây bị trốc rễ đổ ngổn ngang bà mẹ thốt lên “Ôi tang thương quá” vậy mà chú bé Nguyễn Gia Thiều đã xuất thành thơ: Mẹ ơi trông kìa/ Lởm chởm vài hàng tỏi/ Lơ thơ mấy bụi khương/ Vẻ chi tèo teo cảnh/ Thế mà cũng tang thương.
Nguyễn Gia Thiều có đến mười một em trai, hai mươi em gái, trong đó có bốn em trai cũng say thơ ca. Họ lập Tao đàn Tứ Trai, Nguyễn Gia Thiều là Thi nguyên. Thi đàn gia đình này theo gương Tao Đàn hội thời vua Lê Thánh Tông. Tứ Trai gồm: Kỳ Trai Nguyễn Gia Cơ, Hòa Trai Nguyễn Gia Diễm, Mục Trai Nguyễn Gia Xuyến, Thanh Trai Nguyễn Gia Tuyên. Do Nguyễn Gia Thiều tự lấy tên hiệu là Tâm Thi Viện Tử nên Tứ Trai tôn là Thi Nguyên và lấy tên hiệu lần lượt là Thi Đề, Thi Xích, Thi Cầm, Thi Thược. |
Lại có lần quận chúa Quỳnh Liên sai tiểu đồng tên là Cam đi hái hoa hải đường, chú bé này ham chơi quên lời sai bảo, phải quay lại hỏi nên bị mắng. Chú bé Nguyễn Gia Thiều cũng xuất thơ ghi lời mẹ dặn cho chú tiểu đồng: Cam tốc ra thăm gốc hải đường/ Hái hoa về để kết làm tràng/ Những cành mới nánh đừng vin nặng/ Mấy đóa còn xanh chớ bứt quàng/ Với lại tây hiên tìm liễn xạ/ Rồi sang đông viện lấy bình hương/ Mà về cho chóng đừng thơ thẩn/ Kẻo lại rằng chưa dặn kỹ càng.
Tao đàn Tứ Trai thường cùng Nguyễn Gia Thiều ngâm vịnh và làm chung tập thơ mang tên Tứ Trai thi tập. Tập thơ chịu ảnh hưởng rõ rệt tư tưởng lánh đời hướng thiền của người cha Đạt Vũ hầu do đó nặng về triết lý, suy ngẫm vũ trụ theo Kinh Dịch và Tam giáo. Về bố cục, tập thơ chia thành nhiều “môn”, mỗi “môn” lại chia thành nhiều “cú”. Tập thơ này hiện không còn đầy đủ nhưng gia phả họ Nguyễn Gia ở Liễu Ngạn có chép lại một số câu.
- Vi diệu môn - Đạo cú:
Trú dạ mênh mang thuyền hạo kiếp
Cổ kim man mác võng huyền cơ
- Vi diệu môn - Kinh cú:
Minh triều ấy lúc cười thiên địa
Thịnh thế là phen nói thánh hiền
- Cảm khai môn - Lý cú:
Tay tích nhân đà đem cố sự
Miệng linh khí vốn ngậm huyền cơ
- Nan xứng môn - Tình cú:
Dấu mèo sơn tái luồn Ngô, Sở
Tiếng chó lâm thôn cắn Việt, Hồ
Phần thơ của Thi nguyên Nguyễn Gia Thiều có chép hai câu tuyệt hay trong bài Thu cảnh ngẫu tác:
Trướng gió lá thêu hầu muốn rụng
Vách sương nhạn vẽ cũng mong kêu
Nguyễn Gia Thiều còn kết bạn rượu với Vũ Tất Nhậm, tạo sĩ Trịnh Tông, tạo sĩ Nguyễn Vụ, gọi là “Tứ linh tửu hữu”. Có lần say quá mức làm cả nhà tưởng tắt thở nhưng khi Nguyễn Gia Diễm ra đề “Ngâm thơ lúc say” thì Nguyễn Gia Thiều dù đang say cũng vẫn đọc ra được câu thơ: Say ấy ví dầu say thượng cổ/ Thi chi có một Lý tiên sinh.
Đọc thơ xong cũng tỉnh rượu luôn. Mọi người mừng rỡ nói: “Thật là ông thơ tự trong gan ruột”.
Tao đàn Tứ Trai hoạt động sôi nổi cũng chính là thời kỳ Nguyễn Gia Thiều chắp bút viết tác phẩm Cung oán ngâm khúc. Sau đó một phần thành viên qua đời hoặc đi tu, một phần thời cuộc biến cải với việc vua Lê Chiêu Thống tòng vong chống quân Tây Sơn khiến vị tướng trung thành Nguyễn Gia Thiều phải ẩn thân bất hợp tác đến lúc qua đời nên thơ ca cũng không dồi dào như trước.