ĐBQH Đoàn Thị Lê An (Cao Bằng):
Chỉ "siết" tỷ lệ sở hữu cổ phần có ngăn được sở hữu chéo?
Đây là dự luật khó và có nhiều nội dung phức tạp, chuyên ngành sâu, có tác động ảnh hưởng đến rất nhiều đối tượng cũng như đối với nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, quá trình tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật rất công phu, mất nhiều thời gian mà Quốc hội cũng đã phải điều chỉnh sang kỳ họp này.
Về tỷ lệ sở hữu cổ phần, Điều 63 dự thảo Luật điều chỉnh tỷ lệ sở hữu cổ phần của tổ chức tín dụng theo hướng giảm so với luật hiện hành nhằm hướng đến việc loại bỏ tình trạng sở hữu chéo, sử dụng tỷ lệ sở hữu cổ phần để thao túng, chi phối hoạt động của các tổ chức tín dụng từ một số cổ đông, nhóm cổ đông lớn. Tôi cho rằng, vấn đề điều chỉnh tỷ lệ sở hữu này không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo, điều này chỉ kiểm soát được về mặt hồ sơ. Việc khống chế tỷ lệ không quan trọng bằng việc giám sát thực thi quy định, chưa nói đến việc có thể tạo ra rào cản ngăn cản dòng vốn ngoại chảy vào hệ thống ngân hàng nội khi những người chủ ngân hàng nắm giữ 15 đến 20% vốn ngân hàng không thể lũng đoạn các hoạt động cho vay của chính tổ chức đó.
Trên thực tế, những trường hợp sai phạm vừa qua cho thấy, tỷ lệ sở hữu thực sự của những chủ thể này cao hơn rất nhiều so với quy định thông qua các công ty con, công ty liên kết hoặc các cá nhân đứng tên đó. Việc sửa đổi pháp luật để phù hợp thực tiễn rất cần thiết, tuy nhiên khống chế tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng không đủ ngăn tái diễn vụ việc tương tự như ngân hàng SCB, bởi sở hữu chéo hay thao túng ngân hàng bản chất rất phức tạp, nếu nhìn trên giấy tờ nhiều cổ đông sở hữu thấp hơn tỷ lệ cho phép nhưng vẫn nắm quyền chi phối.
Do đó, bên cạnh việc siết tỷ lệ sở hữu, cần xem xét quy định thật chặt chẽ về điều kiện, thủ tục cấp tín dụng cho khách hàng liên quan cổ đông, có hệ thống giám sát chéo, thiết lập một khung pháp lý cụ thể trong lĩnh vực tài chính để làm rõ cơ cấu sở hữu, chủ sở hữu thực và trách nhiệm giải trình, xử lý nghiêm minh với những trường hợp cố ý làm trái.
ĐBQH Hoàng Thị Thanh Thúy (Tây Ninh):
Tạo nền tảng quan trọng xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 136 của dự thảo Luật, tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng và người có liên quan của ngân hàng thương mại, ngân hàng hợp tác xã, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng, tổ chức tài chính vi mô có xu hướng giảm dần tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng từng giai đoạn để hạn chế thấp nhất những biến động đối với kinh tế - xã hội. Tôi hoàn toàn ủng hộ chủ trương giảm tỷ lệ, giới hạn cấp tín dụng đối với các khách hàng tại các ngân hàng thương mại do Ban soạn thảo đề xuất. Tuy nhiên, khi giảm tỷ lệ này cần phải dự liệu và giải quyết các khó khăn có thể gặp phải. Ví dụ, môi trường tín dụng của Việt Nam sẽ kém hấp dẫn hơn so với các quốc gia trong khu vực như Indonesia có tỷ lệ 20% và một số quốc gia khác.
Dự thảo Luật hiện mở rộng phạm vi cho người có liên quan. Điều này đồng nghĩa với việc nhóm người có liên quan sẽ nhiều hơn. Quy định này sẽ hạn chế các rủi ro khi cấp tín dụng cho các nhóm đối tượng mang tính hệ sinh thái, nhưng cũng sẽ làm khó cho các tổ chức tín dụng khi thực hiện các hoạt động tín dụng. Ngoài ra, việc quy định giảm tỷ lệ cấp tín dụng theo lộ trình này là rất tiến bộ. Ban soạn thảo có thể cân nhắc thêm phương án phân loại các tổ chức tín dụng theo tổng số vốn tự có, với mỗi nhóm tỷ lệ giới hạn cấp tín dụng sẽ khác nhau. Quy mô vốn của các tổ chức tín dụng hiện nay liên tục gia tăng và có sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại. Do đó, không nên cào bằng, áp dụng tỷ lệ chung cho tất cả các ngân hàng thương mại. Tỷ lệ 10% hay 15% trên quy mô vốn với một số ngân hàng là rất lớn, dẫn đến rủi ro về thanh toán cho các khoản tín dụng và giảm cơ hội tiếp cận nguồn vốn của các tổ chức tín dụng.
Liên quan đến quy định về xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, tôi hoàn toàn thống nhất với chủ trương luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu được quy định tại Nghị quyết số 42 của Quốc hội và tháo gỡ một số vướng mắc khi áp dụng Nghị quyết này. Bởi lẽ, khi các quy định này được ban hành thì việc xử lý nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng đã có nhiều tiến bộ, tiến triển tích cực, đảm bảo được phần nào quyền lợi của các bên, thúc đẩy sự chủ động thanh toán của khách hàng. Bên cạnh đó, các quy định về xử lý nợ xấu đã giảm thiểu được tình trạng cố tình chây ỳ, không hợp tác của khách hàng. Tôi cho rằng, nợ xấu của các ngân hàng không phải là vấn đề thời điểm, mà là thường trực và gần như gắn liền với quá trình hoạt động của ngân hàng. Việc luật hóa các quy định về nợ xấu, về quyền thu giữ tài sản, về quyền ưu tiên thanh toán... sẽ là nền tảng quan trọng để xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu, tạo nên một thị trường mua, bán nợ đúng nghĩa.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh:
Có lộ trình thực hiện để bảo đảm sự ổn định hoạt động của tổ chức tín dụng
Nhiều đại biểu quan tâm về các quy định có liên quan đến xử lý sở hữu chéo, thao túng và chi phối của các tổ chức tín dụng. Đây là vấn đề hết sức quan trọng, nếu một biện pháp thì cũng không đủ mà tất cả các biện pháp trong đây, theo quan điểm của chúng tôi là phải thống nhất, phải xuyên suốt và phải tiến hành đồng bộ. Ví dụ như quy định về mở rộng đối tượng người có liên quan, nếu chỉ quy định như thế này thì có xử lý được hết tình trạng sở hữu chéo, chi phối hay là thao túng tổ chức tín dụng hay không? Như trường hợp của SCB thời gian qua, mặc dù bây giờ sở hữu của cá nhân chỉ 5%, của một tổ chức thì cũng như thế, nhưng người ta lại nhờ người này, mượn danh người kia đứng tên thì việc này chỉ có quy định trong luật cũng không đủ mà còn trong cả công tác tổ chức triển khai thực hiện, giám sát như đại biểu đã phát biểu.
Bây giờ chúng ta có các đề án về công nghệ thông tin để có thể kiểm tra, giám sát các hoạt động này thì việc mở rộng một phần cũng là cần thiết. Xin phép các đại biểu Quốc hội cho phép mở rộng các đối tượng người có liên quan đến cả ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô dì, chú bác, đến cả các cháu, tức là 5 thế hệ là một biện pháp cần thiết để có thể kiểm soát được tình trạng này.
Đại biểu cũng có quan tâm đến trường hợp của Quỹ tín dụng nhân dân, chúng tôi đã tiếp thu, trong dự thảo Luật đã "khu trú" lại, không mở rộng như các tổ chức tín dụng khác. Đối với Quỹ tín dụng nhân dân đã thu hẹp hơn đối tượng, phạm vi người có liên quan. Cũng liên quan đến thao túng sở hữu chéo thì trong dự thảo Luật đã tiếp thu ý kiến, đã giảm tỷ lệ sở hữu của các cổ đông là tổ chức, cổ đông và người có liên quan. Đối với cổ đông là tổ chức thì quy định hiện hành là 15%, bây giờ quy định giảm xuống 10%. Còn cổ đông, tổ chức và người có liên quan ở mức 20% hiện hành cũng quy định giảm xuống còn 15%. Đối với việc giới hạn cấp tín dụng, trong dự thảo Luật cũng đã có phân biệt giữa Ngân hàng Hợp tác xã đối với Ngân hàng Thương mại, đối với Quỹ Tín dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô ở mức khác với so với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Các tổ chức tín dụng phi ngân hàng ở giới hạn cấp tín dụng cao hơn.
Đại biểu cũng đưa ra lộ trình 5 năm, trong dự thảo Luật đã có lộ trình này để bảo đảm sự ổn định hoạt động của các tổ chức tín dụng và mức ở đây tương ứng mỗi năm ở các trường hợp đối với một khách hàng giảm 1% và ở mức một khách hàng và người có liên quan giảm 2%/năm. Đến năm 2029 từ mức 15% sẽ xuống 10% và tương ứng ở mức 25% sẽ xuống mức 15%.