Biểu hiện cảnh báo bệnh thuỷ đậu
Theo PGS.TS.BS Đỗ Duy Cường, Giám đốc Trung tâm Bệnh Nhiệt đới, Bệnh viện Bạch Mai, thuỷ đậu là bệnh truyền nhiễm do virus Varicella zoster (VZV) gây ra, bệnh chủ yếu lây qua đường hô hấp. Do đó, đa số trường hợp người khỏe mạnh nhiễm thủy đậu là do tiếp xúc với người bệnh thông qua không khí như hít phải những giọt nước bọt bắn ra ngoài khi bệnh nhân ho, hắt hơi, hay tiếp xúc chất dịch từ mụn nước.
Bác sĩ Cường cho biết, thủy đậu thường mắc ở trẻ em do không có tiêm phòng, nên chưa có miễn dịch và lây qua đường hô hấp. Nhiều người dân vẫn nghĩ rằng chỉ trẻ em mới mắc thủy đậu nên rất chủ quan, dẫn đến những biến chứng khó kiểm soát. Tuy nhiên, người lớn nếu không có miễn dịch khi tiếp xúc với người bệnh cũng dễ bị lây và có xu hướng nặng hơn trẻ em.
Những trường hợp bệnh nhân có biểu hiện nặng thường mắc các bệnh nền như ung thư, viêm phổi, viêm não, suy gan, nằm trong bệnh cảnh suy đa phủ tạng, hay đang phải sử dụng các loại thuốc như Corticoid, loại thuốc ức chế miễn dịch để chữa bệnh gút, phổi, thận. Một số bệnh nhân nhập viện trên cơ địa đặc biệt hay phụ nữ có thai.
Đây là những đối tượng đặc biệt, khi mắc bệnh, virus sẽ bùng lên và gây tổn thương nặng. Bệnh nhân có thể tử vong nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, một số trường hợp có biến chứng như viêm phổi, viêm não, hoặc suy gan, thậm chí là suy đa phủ tạng cần lọc máu.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, có khoảng 90% người chưa có miễn dịch thủy đậu sẽ mắc bệnh nếu tiếp xúc với người bệnh. Bệnh thủy đậu có thể lây nhiễm trong khoảng thời gian từ 1 - 2 ngày trước khi xuất hiện mụn nước, cho đến lúc các mụn nước khô lại và bong tróc vảy.
Ngoài ra, bệnh thủy đậu còn có thể lây truyền từ mẹ sang con. Phụ nữ mang thai bị thủy đậu có thể lây truyền cho thai nhi qua nhau thai hoặc lây sau khi sinh nở.
PGS Cường thông tin, bệnh thủy đậu thường xảy ra rải rác quanh năm, nhưng xuất hiện nhiều vào dịp đông xuân. Thời gian ủ bệnh thường từ 2 đến 3 tuần. Sau ủ bệnh, bệnh bắt đầu giai đoạn khởi phát với những biểu hiện của thủy đậu thường gặp như: Sốt, đau đầu, mệt mỏi, phát ban. Ở giai đoạn toàn phát, triệu chứng thường là sốt cao, đau đầu, chán ăn, mệt mỏi, buồn nôn, đau cơ.
Điển hình là xuất hiện những mụn nước với đường kính 1 - 3 mm xuất hiện toàn thân, tập trung nhiều ở mặt, thân mình rồi lan ra toàn thân, thậm chí xuất hiện cả trong niêm mạc miệng, gây ngứa rát, khó chịu cho người bệnh.
Nếu không có biến chứng, giai đoạn hồi phục bệnh thủy đậu thường sau 7 - 10 ngày. Khi đó, các vết mụn nước sẽ khô dần, bong vảy, da thâm và khỏi lâu sẽ trở lại bình thường không để lại sẹo. Trong giai đoạn này, việc vệ sinh cơ thể cần đặc biệt chú trọng, tránh để nhiễm trùng nốt phỏng dẫn đến sẹo.
Trong những trường hợp nặng, mụn nước sẽ to hơn. Khi nhiễm trùng, mụn nước sẽ có màu đục do chứa mủ. Ở trường hợp thủy đậu biến chứng có thể gây viêm phổi, viêm não, viêm gan,... Đặc biệt, phụ nữ mang thai bị thuỷ đậu ở 3 tháng đầu của thai kỳ có nguy cơ sảy thai, hoặc khi sinh ra trẻ có thể mắc một số dị tật bẩm sinh.
Không nên nghĩ “bệnh thuỷ đậu chỉ mắc ở trẻ em, vài ngày rồi khỏi”
Bác sĩ Cường nhấn mạnh, các bệnh nhân có miễn dịch yếu, đang dùng thuốc corticoid, thuốc điều trị ung thư, đang xạ trị khi mắc thủy đậu sẽ dễ chuyển nặng và biến chứng. Ngoài ra, với những trường hợp khỏe mạnh cũng không nên chủ quan. Khi mắc bệnh cần đến cơ sở y tế để bác sĩ có chuyên môn chẩn đoán, điều trị kịp thời.
Theo PGS.TS.BS, Đỗ Duy Cường, hiện nay đã có thuốc điều trị đặc hiệu chống virus thuỷ đậu là Acyclorvir nhưng cần phải điều trị sớm trong những ngày đầu thì mới có hiệu quả. Bên cạnh đó, người bệnh cần dùng thuốc chữa triệu chứng như hạ sốt, bôi các dung dịch sát khuẩn làm se các nốt phỏng tránh bội nhiễm (xanh methylen), vệ sinh thân thể tránh các biến chứng bội nhiễm, không cần phải kiêng cữ nhiều (kiêng gió, kiêng nước,...).
Điều quan trọng là người bệnh cần phải theo dõi và phát hiện kịp thời các biến chứng, giữ gìn vệ sinh và tránh tự ý sử dụng các thuốc có thể gây bệnh nặng hơn như Corticoid.
Cách phòng ngừa bệnh thuỷ đậu hiệu quả hiện nay là tiêm phòng vắc xin. Trẻ có thể bắt đầu tiêm phòng từ 12 tháng tuổi hay bất kỳ ở lứa tuổi nào sau đó khi có điều kiện. Đối với phụ nữ khi có kế hoạch sinh con, nên tiêm phòng thủy đậu trước khi có thai ít nhất là 3 tháng.
“Hiện vắc xin phòng bệnh rất sẵn, trẻ nhỏ, người lớn hoàn toàn có thể tiêm phòng theo hướng dẫn. Tuy nhiên, có thể vì chủ quan hoặc vì giá cả vắc xin đắt đỏ (khoảng 700.000 đồng/liều) nên nhiều người trì hoãn không tiêm, điều này là rất nguy hiểm”, PGS Đỗ Duy Cường cảnh báo.
Bác sĩ Cường nhấn mạnh, người dân nên đi tiêm phòng vắc xin thủy đậu, không nên chủ quan và nghĩ “bệnh thủy đậu chỉ mắc ở trẻ em, bị vài ngày rồi khỏi”. Người lớn cũng phải có ý thức phòng bệnh, khi thấy trẻ em mắc bệnh hoặc người xung quanh mắc bệnh, phải có biện pháp đeo khẩu trang, hạn chế tiếp xúc vì bệnh lây qua đường hô hấp.
Người lớn khi mắc thủy đậu thường có biến chứng nặng hơn vì thường có bệnh nền và khi phát hiện thường muộn hơn hoặc có chẩn đoán nhầm so với các bệnh khác. Tuyệt đối không chủ quan để hạn chế các biến chứng do bệnh thủy đậu gây ra.