Một thời sầm uất, phồn thịnh
Dư địa chí Hải Dương có ghi chép gốm Quao ra đời khoảng thế kỷ XV, thời kỳ phát triển sầm uất nhất là vào đầu thế kỷ XIX, khi ấy một nửa số hộ dân trong làng có lò nung gốm và độ nổi tiếng của gốm Quao không hề thua kém gốm Chu Đậu mặc dù xuất hiện sau. Đến đầu thế kỷ XX, làng Quao có tới 95% số hộ làm nghề gốm. Hiện nay trong làng có giếng, ao hồ rất sâu nhưng không có bùn đất mà hầu như là mảnh sành, mảnh gốm tích tụ nhiều năm - Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn Lâm Xuyên, xã Phú Điền Nguyễn Văn Tưởng, người con sinh ra lớn lên tại làng kể lại như thêm chắc chắn về lịch sử thịnh vượng một thời của làng gốm truyền thống nơi đây.
Trưởng thôn Lâm Xuyên cho biết thêm: Nhờ nghề làm gốm mà làng Quao thịnh vượng nhất vùng, người dân trong làng rất giàu có. Thời sầm uất, riêng tháng 2 trong làng chỉ tổ chức các hoạt động hội hè, ăn chơi thu hút người dân xung quanh đến tụ họp tấp nập, đình làng khi ấy cũng to và bề thế vô cùng. Cũng chính vì sự trù phú mà nghề gốm đem lại đã thu hút người dân địa phương khác đến ngụ cư tại làng (Hà Nam, Hưng Yên...), thậm chí làng bên chỉ chuyên phục vụ chở đất cho Làng Quao làm gốm.
Gốm Quao khác biệt với những làng gốm khác khi không sử dụng men và chủ yếu sản xuất các đồ dùng dân dụng phục vụ dân sinh như: Nồi, niêu, chậu, chõ đồ xôi, ấm, chóe, vại nhỡ, lọ, hũ nhỏ… Đặc biệt nguyên liệu và cách làm gốm vô cùng “khó tính”. Đất để làm gốm Quao phải là đất Kính Chủ, huyện Kinh Môn, nguyên liệu dùng để đốt lò phải dùng cây tre, dóc lấy ở Bắc Giang. Người đốt lò sẽ dùng tay để điều khiển ngọn lửa thông qua việc điều chỉnh vị trí các cây tre, dóc tạo ra nhiệt độ mong muốn. Chính vì kĩ thuật cao như vậy nên người thợ đốt lò xưa vô cùng được trọng vọng. Gốm Quao được làm hoàn toàn thủ công, đất sét sẽ được nhào lặn cho chín rồi thấu nhuyễn dẻo mịn, kéo dài được như kéo bột mì làm bánh. Sau đó đất được đưa lên bàn xoay, dùng chân đẩy, tay vuốt để tạo hình dạng mong muốn, tiếp theo là cắt đáy và đem phơi khô cuối cùng cho vào lò nung.
Chính nhờ nguyên liệu khắt khe, kĩ thuật thủ công mà gốm Quao có màu hồng tươi, xương mịn, bền chắc và vô cùng được ưa chuộng thời bấy giờ. Khi ấy, bao quanh làng là sông Quao thuyền vài chục tấn đua nhau ra vào để chở đất làm gốm, sản phẩm đem đi buôn bán khắp các vùng miền Bắc.
Chỉ còn lại những dấu tích
Làng gốm Quao hoạt động liên tục suốt 5 thế kỷ, nhưng đến năm 1942, xảy ra việc ngăn sông, đường vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm bị cắt đứt, làng gốm từ đó suy vong. Sau cách mạng, gốm Quao được khôi phục, năm 1965 Hợp tác xã đồ gốm Phú Điền được thành lập song sản phẩm dần mất thị trường, hợp tác xã giải thể, trong làng chỉ còn lại một số gia đình duy trì làm gốm. Theo trưởng thôn Lâm Xuyên Nguyễn Văn Tưởng, cách đây 30 năm, nghề làm gốm truyền thống ở làng hoạt động cầm chừng, những năm ấy sản phẩm làm ra phải tự mang đi bán tại các chợ quanh vùng không như trước đây thuyền buôn đua nhau tới tận cửa.
Trong những năm làng nghề gốm dần bị mai một, trong làng chỉ còn lại bà Hoàng Thị Bé - người làm gốm cuối cùng. Khi ấy, bà Bé làm gốm theo đơn đặt hàng như các niêu nhỏ đựng bùa, đồ hứng nhựa thông... trung bình mỗi tháng thu nhập được 2.4 triệu đồng, tuy không được như xưa nhưng vẫn đủ để bà duy trì với nghề. Nhưng cách đây 3 năm do tai nạn gãy xương tay bà đã không còn làm gốm nữa, từ đó nghề làm gốm truyền thống tàn lụi. Hiện nay trong làng tuyệt nhiên không còn dấu vết của làng gốm xưa, chỉ hiếm hoi tìm thấy được một vài vật dụng gốm Quao còn sót lại. “Nhớ nghề, thích làm, muốn làm lắm nhưng không còn đất để làm, tay gãy rồi con cháu không cho theo nữa” - bà Bé chia sẻ khi được hỏi về nỗi niềm với nghề gốm đã gắn bó cả đời (bà làm gốm từ năm 6 tuổi đến năm 88 tuổi).
So với gốm Quao, gốm Chu Đậu cũng có nguồn gốc từ huyện Nam Sách và có 400 năm bị thất truyền nhưng hiện nay đã được hồi sinh, phát triển và trở thành một trong những đại diện tiêu biểu của nghề gốm Việt. Trăn trở, đau đáu với nghề truyền thống dần bị mất đi, các cấp chính quyền đã có những biện pháp để lưu giữ làng nghề xưa. Trưởng thôn xã Lâm Xuyên cho biết: Những năm nghề gốm dần mai một, chi bộ thôn đưa ra nhiều giải pháp để tìm thị trường, kỹ thuật, cách làm, cách chuyển đổi để có thể phục dựng lại nghề gốm cổ, khôi phục lại sự sầm uất, nhưng gốm Quao là nghề làm gốm truyền thống, không dùng men nên rất khó để chuyển sang gốm nghệ thuật như gốm Chu Đậu. Các nghệ nhân trong làng cũng không còn nhiều, nghề gốm bị các đồ dụng bằng vật liệu khác thay thế, không đem lại kinh tế lại vô cùng vất vả nên lớp trẻ “chê nghề”.
Làng gốm Quao là một trong nhiều làng nghề cổ đang dần bị mai một, thất truyền, điều này không chỉ là mất đi một nghề với người dân mà còn mất đi giá trị văn hóa, truyền thống lâu đời của cả vùng miền, dân tộc. Chính vì vậy, việc “cứu” làng nghề truyến thống rất cần sự vào cuộc mạnh mẽ, kịp thời của các cấp chính quyết và cả người dân trong làng để phục hồi, tìm hướng đi mới, thay đổi phù hợp với thị trường, lưu giữ và phát triển nét văn hóa lịch sử này.