
Học sinh Việt Nam đạt được những kỹ năng về ngôn ngữ và tính toán cần thiết sánh ngang các quốc gia phát triển
Tiến sĩ Phùng Đức Tùng cho biết “nó cũng giống như Ngày của Mẹ, ngoại trừ việc nó không liên quan chút nào đến cha mẹ cả”.
Mỗi năm cứ đến ngày 20 tháng 11, học sinh Việt Nam lại mua hoa và ấp ủ kế hoạch chúc mừng các thầy cô giáo trong ngày hội diễn ra “tưng bừng” khắp cả nước, giống như ngày của cha và ngày của mẹ ở Anh vậy.
Tiến sĩ Tùng, Giám đốc Viện Nghiên cứu Phát triển Mê Kông nói: “Ở Việt Nam ai cũng biết đến ngày này. Các giáo viên coi đây là ngày rất quan trọng vì họ tự hào về nghề nghiệp của mình. Đồng thời cả xã hội cũng thế, đây là cách chúng tôi thể hiện sự trân trọng đối với các nhà giáo.”
Ông cho biết thêm, chính những dịp như thế này đã “tiếp sức” cho hệ thống giáo dục của Việt Nam đạt hiệu quả rõ rệt.
Theo Ngân hàng Thế giới, học sinh Việt Nam không những vượt trội hơn so với bạn cùng lứa tại các quốc gia Đông Nam Á khác giàu có hơn trong các bài kiểm tra về đọc và khoa học, mà còn vượt trội hơn học sinh các nước Anh, Nhật Bản và Na Uy.
Việt Nam cũng đi ngược lại xu hướng suy giảm về tiêu chuẩn đang diễn ra tại các quốc gia đang phát triển. Một nghiên cứu trong năm 2022 về tỷ lệ biết chữ của phụ nữ do Trung tâm Phát triển Toàn cầu thực hiện cho thấy kể từ những năm 1960, chất lượng giáo dục đã giảm hai phần ba ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, bao gồm Nigeria, Ấn Độ và Băng-la-đét. Việt Nam là một trong số ít quốc gia có sự cải thiện về tỷ lệ này.

Các chuyên gia nói rằng hiểu được lý do tại sao Việt Nam có thành thích tốt như vậy có thể giúp chính phủ các quốc gia khác có nguồn lực giới hạn cải thiện hệ thống giáo dục của mình. Việc này quan trọng đối với cả các nền kinh tế và các cá nhân.
Mặc dù có những tiến bộ vượt bậc kể từ thiên niên kỷ này, hơn 240 triệu trẻ em tại các quốc gia đang phát triển vẫn đang trong tình trạng thất học – trong đó có 100 triệu trẻ em ở khu vực châu Phi cận Sahara và 85 triệu trẻ em ở Trung và Nam Á – gây ra những hậu quả to lớn cho tương lai của các em.
Theo Unesco, tỷ lệ đói nghèo toàn cầu sẽ giảm một nửa nếu tất cả người lớn hoàn thành giáo dục trung học và trẻ sinh ra từ người mẹ đã học xong trung học có khả năng sống sót sau sinh nhật thứ năm cao hơn 31%. Trong khi đó Ngân hàng Thế giới ước tính thu nhập sẽ tăng thêm 10% sau mỗi năm học thêm.
Nhưng việc xác định chính xác bí quyết thành công của Việt Nam không hề dễ dàng.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Abhijeet Singh, Trường Kinh tế Stockholm, người chuyên nghiên cứu về hệ thống trường học tại các quốc gia đang phát triển, cho biết “Thành thật mà nói, tôi nghĩ không ai có câu trả lời hoàn toàn chính xác. Nhưng điều cực kỳ rõ ràng ở Việt Nam đó là với nguồn lực hạn chế, họ vẫn có thể đạt được những kỹ năng về ngôn ngữ và tính toán cần thiết sánh ngang các quốc gia phát triển.”
Kỷ luật... đối với giáo viên
Tất nhiên, có nhiều giải thích khác nhau về sự thành công của Việt Nam, trong đó nổi bật nhất là chất lượng và sự tận tâm của đội ngũ giáo viên. Các giáo viên không chỉ được tôn vinh – điển hình như trong những ngày kỷ niệm giống như Ngày của Mẹ – mà họ còn là những sinh viên tốt nghiệp đại học có trình độ tốt và được đào tạo thường xuyên, thực tế. Họ cũng đến lớp để dạy học.
Giáo sư kinh tế Paul Glewwe tại Đại học Minnesota, người đã có nhiều năm nghiên cứu giáo dục ở những quốc gia có thu nhập thấp, cho biết: “Ở các nước đang phát triển khác, có rất nhiều bằng chứng cho thấy… cứ năm giáo viên thì có một giáo viên không đến lớp vào một ngày bất kỳ”. “Nhưng ở Việt Nam, các giáo viên đều đến lớp – nếu không, họ sẽ gặp rắc rối... hệ thống giáo dục được vận hành có kỷ luật thực sự.”
Điều này một phần là do bộ máy Đảng Cộng sản rất coi trọng giáo dục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chương trình xóa mù chữ cho nhân dân sau khi lên nắm quyền – ông tin rằng “một dân tộc mù chữ là dân tộc yếu” và cho rằng “học tập là công việc suốt đời”.
Theo báo chí Việt Nam, phương châm này vẫn còn tiếp tục tồn tại, với khoảng 18% ngân sách dành cho giáo dục. Những giáo viên chấp nhận công việc ở nông thôn cũng được trả lương cao hơn, nhằm chống lại sự bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn. Và không giống như các quốc gia khác có mức thu nhập tương đối, học sinh nữ thực sự vượt trội hơn trẻ em trai ở trường tiểu học và trung học.
Tiến sĩ Đặng Hải Anh, giảng viên thỉnh giảng tại Trường Kinh tế Luân Đôn cho biết: “Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cộng sản... họ cố gắng tạo chú trọng đến sự bình đẳng trong hệ thống trường học... phụ nữ được cho là có quyền bình đẳng như nam giới. Có thể khó đánh giá tác động của các giá trị văn hóa, nhưng dường như nó đóng một vai trò quan trọng trong thành công của Việt Nam.”
Ngoài ra còn có những lợi ích hữu hình dành cho những giáo viên có thành tích tốt, bao gồm giải thưởng danh giá “giáo viên xuất sắc” dành cho người có thành tích tốt nhất, trong đó hiệu quả công việc và sự thăng tiến dựa vào thành tích học tập của học sinh.

Tất cả điều này tạo ra kết quả trong lớp học. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Singh, trẻ em 8 tuổi ở Việt Nam học được nhiều hơn ở trường so với các bạn cùng lứa ở Peru, Ấn Độ và Ê-ti-ô-pi-a. Nghiên cứu đã phân tích các bài kiểm tra giống hệt nhau do học sinh các quốc gia này thực hiện và phát hiện ra rằng thêm một năm đi học ở Việt Nam đã tăng khả năng một học sinh có thể giải được một bài toán đơn giản lên 21 điểm phần trăm so với chỉ 6 điểm phần trăm ở Ấn Độ.
Tiến sĩ Singh nói: “Một năm học ở Việt Nam rất khác biệt… dường như nó mang lại cho bạn lượng kiến thức gấp đôi so với một năm ở Ấn Độ hoặc Pê-ru. “Nếu bạn có thể giúp trẻ em ở Ấn Độ và Pê-ru học được nhiều kiến thức trong một năm như ở Việt Nam, bạn sẽ thu hẹp được 90% lỗ hổng kiến thức xuất hiện ở độ tuổi lên 8.”
Ông cho biết thêm rằng mục tiêu của các giáo viên cũng quan trọng. Trong khi các hệ thống như hệ thống giáo dục của Ấn Độ là một “chuỗi các giải đấu với hết kỳ thì lớn này đến kỳ thì lớn khác” để tìm ra những học sinh giỏi nhất, thì Việt Nam lại mang đến “các kỹ năng cơ bản ở mức cao dành cho tất cả mọi người.
Việt Nam chú trọng nhiều vào mọi trẻ em, vào việc đặt kỳ vọng tương đối cao về học tập cho tất cả mọi người – và đó thực sự là một sự khác biệt đáng kể”, Tiến sĩ Singh bổ sung.
Điều đó không có nghĩa là không có văn hóa cạnh tranh trong giáo dục. Theo Tiến sĩ Tùng, trường học vẫn được coi là “cách tốt nhất để có một cuộc sống tốt đẹp hơn” và các bậc cha mẹ đầu tư rất nhiều thời gian và tiền bạc vào việc học tập của con cái. Chẳng hạn, việc dạy kèm riêng là điều bình thường, đồng thời kết quả thi được gửi trực tiếp tới phụ huynh để họ có thể theo dõi sự tiến bộ của con mình.
Tiến sĩ Tùng hiện có hai con đang học đại học. Ông cho biết “Thành tích học tập của con cái ảnh hưởng đến danh tiếng của phụ huynh và chúng tôi đều rất tự hào nếu con mình học tốt”.
Khó khăn vẫn còn tồn tại
Mặc dù điều này khuyến khích học sinh học tập chăm chỉ nhưng nó cũng có những hạn chế, đó là học sinh phải chịu áp lực rất lớn về kết quả thi – đặc biệt là khi số lượng học sinh tuyển vào các trường cao đẳng và đại học vẫn còn hạn chế.
Ông Tùng nói: “Việc này có thể khiến học sinh thấy rất căng thẳng và chúng tôi thực sự chứng kiến những thử thách về mặt sức khỏe tinh thần và thậm chí cả các vụ tự tử khi kết quả không tốt hoặc không đáp ứng được kỳ vọng của phụ huynh. Điều này thực sự khủng khiếp”.
Ngoài ra còn có những khó khăn khác mà hệ thống giáo dục của Việt Nam phải đối mặt. Theo Ngân hàng Thế giới, cho dù đã nỗ lực, học sinh tại các thành phố vẫn có nhiều cơ hội hơn – 76% thanh thiếu niên đang theo học tại các trường trung học ở khu vực nông thôn, so với 90% ở khu vực thành thị.
Người dân tộc thiểu số cũng bị tụt lại phía sau và học sinh gia đình nghèo cũng vậy. Ở tuổi 19, chỉ 1/5 số học sinh thuộc nhóm 20% gia đình nghèo nhất xã hội tiếp tục đi học, so với 80% học sinh thuộc nhóm 20% gia đình giàu nhất.
Một số người cũng lo ngại tình trạng thiếu giáo viên đang xuất hiện khi ngày càng có nhiều sinh viên tốt nghiệp hàng đầu bị thu hút vào làm việc cho khu vực tư nhân hoặc các cơ hội ở nước ngoài. Chính phủ Việt Nam hiện đang thảo luận vấn đề tăng lương và phúc lợi cho giáo viên. Trong khi đó, một số người cho rằng hệ thống cần tập trung nhiều hơn vào ngôn ngữ, máy tính và các kỹ năng làm việc nhóm mà các ngành nghề đang yêu cầu, và việc cải cách chương trình giảng dạy đang diễn ra.
Nhưng theo Tiến sĩ Singh, việc Việt Nam thậm chí còn đang thảo luận về “kỹ năng mềm và đổi mới” cho thấy hệ thống hiện tại hiệu quả như thế nào so với các quốc gia khác có GDP tương tự.
Ông nói: “Những lời chỉ trích mà tôi nghe được về hệ thống giáo dục của Việt Nam về cơ bản giống với những gì bạn nghe về các nước [phát triển] - vốn giàu hơn khoảng năm lần - hơn là những cuộc thảo luận mà chúng ta đang có về phần lớn khu vực Nam Á và châu Phi cận Sahara,” ông nói.
“Thảo luận xem trẻ em có sáng tạo hay không và ranh giới đổi mới tiếp theo sẽ là gì – đó là cấp độ toàn diện tiếp theo cần quan tâm so với những gì bạn cần làm để đọc, tính toán cơ bản.”
Vậy, điều quan trọng là, các quốc gia khác có mức thu nhập tương tự nên nhân rộng điều gì? Các chuyên gia cho rằng rất khó xác định chính xác, đặc biệt là khi phần lớn thành công của Việt Nam gắn liền với văn hóa của nước này.
Tiến sĩ Đặng nói: “Rất khó để chuyển tải các giá trị của Việt Nam sang một quốc gia khác, đó là điều không thể”. Tuy nhiên, ông nói thêm rằng việc đảm bảo giáo viên được trả lương cao, được tôn trọng và tận tâm sẽ là điểm khởi đầu tốt cho các quốc gia khác.
Tiến sĩ Tùng đồng tình với quan điểm này. “Điều quan trọng nhất là thay đổi nhận thức trong xã hội về tầm quan trọng của giáo dục. Thứ hai là bạn phải đào tạo giáo viên và khuyến khích họ làm việc chăm chỉ. Và ở Việt Nam, chúng tôi có một hệ thống giám sát rất tốt và minh bạch để đo lường hiệu quả hoạt động của giáo viên và dựa vào đó để tăng lương hoặc thăng chức cho họ.”
Tiến sĩ Tùng bổ sung thêm, các chính sách hỗ trợ cha mẹ nghèo đưa con đến trường và khuyến khích giáo viên làm việc ở vùng sâu vùng xa cũng rất quan trọng – khả năng truy cập Internet rộng rãi và giá cả phải chăng cũng vậy.
Nhưng nhìn chung, đóng góp quan trọng nhất của Việt Nam là chứng minh rằng có thể xây dựng được một hệ thống giáo dục vững mạnh ngay cả khi nguồn lực có hạn.
Tiến sĩ Singh nói: “Tôi không nghĩ có bất kỳ cuốn cẩm nang nào về cách dạy học nếu bạn muốn có kết quả như Việt Nam”. “Nhưng Việt Nam nên được xem là nguồn tạo động lực để chứng minh rằng một nền giáo dục chất lượng cao là có thể thực hiện được, mặc dù mức thu nhập quốc dân thấp.”
Phương Anh theo https://www.telegraph.co.uk/global-health/climate-and-people/why-vietnamese-children-outperform-the-british-at-school/