Như Báo Đại biểu Nhân dân đã đưa tin, sáng nay, Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam năm 2023 với chủ đề "Tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển bền vững" đã chính thức khai mạc với sự tham dự trực tiếp của 450 đại biểu trong nước và quốc tế.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã chủ trì và phát biểu khai mạc, nêu 3 vấn đề lớn cần tập trung thảo luận, giải đáp tại Diễn đàn.
Quyết sách chủ động, ứng phó linh hoạt, để “lội ngược dòng” thành công
Tiếp đó, phát biểu đề dẫn Diễn đàn, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng nêu rõ, Diễn đàn được tổ chức trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, kinh tế toàn cầu vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn, tăng trưởng giảm sút trong khi lạm phát ở nhiều quốc gia vẫn ở mức cao; kinh tế Việt Nam từng bước phục hồi song đang đứng trước nhiều thách thức lớn, có những mặt còn trở nên nghiêm trọng hơn so với năm trước, cuối năm còn khó khăn hơn đầu năm. "Điều này đòi hỏi chúng ta cần có những quyết sách chủ động, ứng phó linh hoạt, sáng tạo để duy trì đà tăng trưởng, có thể “lội ngược dòng” thành công", ông Nguyễn Xuân Thắng.
Trong phát biểu đề dẫn, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, giữ vững ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn là tiền đề và là điều kiện quan trọng để nền kinh tế Việt Nam bảo vệ được những thành quả phát triển, tăng cường năng lực nội sinh, kiến tạo động lực tăng trưởng bền vững. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Việt Nam đã triển khai đồng bộ các chính sách vừa tập trung chống chịu, thích ứng với các sức ép đến từ bên ngoài; vừa tháo gỡ, xử lý những yếu kém, điểm nghẽn ở bên trong.
Bằng những quyết sách được cân nhắc kỹ lưỡng, kịp thời, phù hợp với tình hình trong xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm và chưa có tiền lệ, ba lĩnh vực huyết mạch của nền kinh tế, nơi tập trung nguồn lực lớn, cũng là động lực kích thích tăng trưởng quan trọng là: gia tăng dư nợ tín dụng ngân hàng; khởi tạo lại thị trường vốn trung và dài hạn, nhất là thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu doanh nghiệp; và thị trường bất động sản từ chỗ có nguy cơ bị tắc nghẽn, căng thẳng, đóng băng đã từng bước được giải toả, khai thông, giữ vững an toàn hệ thống.
Những chuyển biến tích cực đang mang lại niềm tin về triển vọng tươi sáng hơn cho nền kinh tế trong thời gian tới: tăng trưởng đang dần khởi sắc, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước, nhất là khi các chính sách hỗ trợ đã và đang có tác động rõ nét hơn và những dự án đầu tư phát triển lớn được triển khai mạnh trong cả nước, nhất là việc khởi công đồng loạt 12 dự án hạ tầng lớn mang tính kết nối vùng, quốc gia.
Khẳng định nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất, song Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, "chúng ta cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng, những khó khăn không thể khắc phục chỉ trong một sớm, một chiều". Trên thực tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn chưa đạt như kỳ vọng; ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế còn tiềm ẩn rủi ro, nhất là nguy cơ lạm phát gia tăng vào cuối năm; nguy cơ đổ vỡ trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản chưa thể loại trừ; doanh nghiệp chưa thể đẩy nhanh phục hồi sản xuất, kinh doanh; ngay cả vào thời điểm cuối năm khi nhu cầu tiêu dùng tăng cao, xuất khẩu vẫn có thể gặp khó nếu các thị trường lớn trên thế giới rơi vào suy thoái.
Phải có giải pháp thực tiễn, đột phá để khôi phục các động lực tăng trưởng quan trọng
Để xác định kịch bản tăng trưởng trong thời gian tới, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đề nghị các đại biểu, các nhà khoa học thảo luận, tìm ra những giải pháp thực tiễn, khả thi, đột phá nhằm khôi phục các động lực tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế:
Một là, đánh giá đầy đủ và chủ động khôi phục tiêu dùng trong nước. Cần đẩy nhanh sự hồi phục của thị trường chứng khoán, thị trường trái phiếu và thị trường bất động sản để có tác động lan toả, tạo tín hiệu tích cực, lập lại niềm tin giúp tăng tiêu dùng và đầu tư.
"Thực tiễn cho thấy, cuối cùng là niềm tin chứ không phải các quy định hành chính mới quyết định khả năng kiểm soát rủi ro và ổn định thị trường trong những thời điểm nhạy cảm của hệ thống tài chính - ngân hàng". Nhấn mạnh như vậy, ông Nguyễn Xuân Thắng chỉ rõ, cần nhận thức rõ điều này để có các chính sách phù hợp, phân loại rõ đối tượng, xác lập hoạt động cần hạn chế hay khuyến khích, điều hành thống nhất thay vì thay đổi giật cục, hoặc áp dụng một chính sách chung cho tất cả, không rõ đối tượng, thiếu tính cụ thể, thậm chí chỉ như một lời khuyến cáo. Việc làm trong sạch thị trường cần đi đôi với tạo lập môi trường thuận lợi, công bằng để khuyến khích mọi chủ thể kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh.
Hai là, khôi phục dòng vốn đầu tư. Trong nửa đầu năm 2023, quy mô vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế đều tăng, song vốn đầu tư công tăng mạnh nhất, còn vốn đầu tư của khu vực FDI và khu vực kinh tế ngoài nhà nước có mức tăng trưởng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm trước. Tình hình giải ngân vốn đầu tư công tuy được cải thiện ít nhiều nhưng còn rất chậm, thực trạng “có tiền nhưng không tiêu được” vẫn phổ biến đối với các dự án cả ở trung ương và địa phương, tạo ra những hệ luỵ dây chuyền, ảnh hưởng trực tiếp đến động lực đầu tư của khu vực tư nhân.
Không phải đến bây giờ chúng ta mới nhận ra và nói về điều này, nhưng theo ông Nguyễn Xuân Thắng, việc tháo gỡ những vướng mắc về quy định, nguyên tắc phức tạp liên quan đến đầu tư công chưa làm được bao nhiêu. Việc Quốc hội, Chính phủ thông qua, cho phép triển khai các cơ chế đặc thù, thí điểm nới lỏng một số quy định, thủ tục về đấu thầu, giải phóng mặt bằng, đền bù… khi chưa sửa kịp luật phải chăng là giải pháp linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương, các cơ quan, tổ chức và các nhà đầu tư nhanh chóng triển khai dự án.
Cũng cần thấy rằng, chính sách tiền tệ có những giới hạn của nó, càng không được lạm dụng khi dư địa để điều hành chính sách tiền tệ không còn nhiều, nhất là khi mặt bằng lãi suất không còn là cứu cánh cho doanh nghiệp đã không còn đủ sức khỏe và không có nhu cầu vay vốn đầu tư do không tìm được thị trường đầu ra cho sản xuất kinh doanh.
"Điều này đòi hỏi phải chuyển hướng tập trung ưu tiên chính sách tài khóa, kết hợp triển khai chính sách tiền tệ và tài khóa một cách đồng bộ, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, để hướng dòng vốn vào những công trình hạ tầng lớn, những chương trình mục tiêu quốc gia, những ngành, lĩnh vực có khả năng sớm phục hồi và phát triển, dẫn dắt nền kinh tế", ông Nguyễn Xuân Thắng nói.
Ba là, tháo gỡ những khó khăn, khôi phục sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Trải qua gần ba năm cầm cự, chống chọi với đại dịch, nguồn lực của các doanh nghiệp đã bị suy kiệt, lại thêm những biến cố gần đây trên thị trường tiếp tục bào mòn niềm tin, tinh thần và ý chí sản xuất, kinh doanh. Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều chính sách, giải pháp tháo gỡ những rào cản, khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp.
Trong đó, điều quan trọng là cần tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả, đưa những chính sách, giải pháp này vào cuộc sống. Ở đây, có hai vấn đề được đặt ra: một mặt, cần thống nhất cách hiểu và quy trình để hạn chế sự tùy tiện trong thực thi, tạo thuận lợi không chỉ cho doanh nghiệp mà cho cả cán bộ, công chức giải quyết thủ tục hành chính. Mặt khác, cần làm rõ nguyên nhân và có giải pháp khắc phục tình trạng đùn đẩy, né tránh, sợ sai, sợ trách nhiệm dẫn đến sự chậm trễ trong thực thi công vụ.
Giải quyết vấn đề trước mắt để đặt cơ sở giải quyết các vấn đề trung hạn và lâu dài
Nhấn mạnh Diễn đàn không chỉ bàn về những vấn đề trước mắt, mà giải quyết những vấn đề trước mắt để đặt cơ sở cho việc giải quyết những vấn đề trung hạn và lâu dài, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nêu rõ, vấn đề quan trọng mà Diễn đàn nêu ra: nâng cao năng suất lao động là phương thức căn bản nhất để Việt Nam hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững, bởi điều này gắn liền với việc khởi tạo hai quá trình chuyển dịch cơ bản của nền kinh tế:
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, di chuyển nguồn lực từ các ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao hơn nhằm sử dụng có hiệu quả nhất nguồn lực. Cần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu không chỉ từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ mà còn ngay trong chính các ngành này theo hướng tăng tỷ trọng các tiểu ngành có năng suất, hàm lượng công nghệ, sản phẩm có chất lượng và giá trị gia tăng cao hơn. Sự chuyển dịch này sẽ diễn ra nhanh hơn nhờ quá trình chuyển đổi số, xanh hoá đang thẩm thấu vào từng sản phẩm, từng khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh và từng hoạt động kinh tế - xã hội.
Hai là, tạo hiệu ứng kinh tế quy mô, khai thác lợi thế nhờ quy mô để tăng năng suất trong từng doanh nghiệp, từng ngành và từng vùng kinh tế. Cần tháo gỡ các nút thắt, giải quyết các điểm nghẽn, tạo điều kiện để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, con người. Đẩy mạnh các cụm liên kết ngành, coi đây là phương thức hữu hiệu giúp các doanh nghiệp cắt giảm chi phí giao dịch, dễ dàng tiếp cận được các dịch vụ hỗ trợ với chi phí thấp, trao đổi, học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm với nhau.
Vượt qua tư duy nhiệm kỳ, ngắn hạn, tư tưởng cục bộ, chủ nghĩa địa phương, quyết tâm đổi mới và xây dựng các thể chế liên kết vùng thật sự hiệu lực, hiệu quả, theo các Nghị quyết của Bộ Chính trị trên nguyên tắc “cùng làm, cùng hưởng, cùng thắng”; giúp các địa phương trong vùng phát huy được tiềm năng, lợi thế, tận dụng tốt vị trí kết nối, xây dựng được hình ảnh, thương hiệu về việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, đáng sống, đáng đầu tư, có sức hấp dẫn cả về kinh tế, xã hội và môi trường.
Ông Nguyễn Xuân Thắng cũng nhấn mạnh 3 bài học kinh nghiệm sâu sắc cần tiếp tục kế thừa trong thời gian tới gồm:
Bài học về hoán chuyển những rủi ro, thách thức từ bên ngoài; Bài học về vượt khó và càng trong khó khăn, càng cần phải chú ý đến mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, tích cực hỗ trợ những người lao động, người nghèo trước nguy cơ bị mất việc làm, thu nhập giảm sút và giá cả của nhiều mặt hàng thiết yếu gia tăng.
Bài học trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách trên nguyên tắc: phải bám sát chương trình, kế hoạch hành động; chủ động, sáng tạo, linh hoạt đề ra những giải pháp khả thi, bám sát thực tiễn gắn với cụ thể hoá, cá thể hóa trách nhiệm; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với uỷ quyền, trao quyền và giao quyền cụ thể; đổi mới tư duy và phương thức phân bổ nguồn lực, thống nhất tiếp cận: ngân sách là nguồn lực quốc gia, ngân sách quốc gia thay vì phân tách ngân sách trung ương và địa phương trong các dự án liên vùng; phát huy trí tuệ và bản lĩnh “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” của người đứng đầu; tăng cường phối hợp và kiểm tra, giám sát; tổng kết, rút kinh nghiệm, kịp thời điều chỉnh ở từng thời điểm và nhiệm vụ; nâng cao năng lực quản trị thực thi để biến quyết tâm vượt trội thành hành động thực tế và từ hành động tạo ra được các kết quả phát triển cụ thể, thiết thực.