
- Thằng Bờm là ai?
- Thằng Bờm là thằng bờm!
Thời ông Lý Bơm, sổ đinh của làng ghi là Lý An Bờm; Sang thời ông Lý Nhõn ghi là Trần Bờm, rồi sau đó, không hiểu thế nào, lại chữa ra Lê văn Bờm; Đến thời ông Lý Cai, năm chạy lụt, sổ đinh không biết đi đằng nào, sau lập lại không biết ghi là gì; Hỏi dân làng, người nào mặt cũng thộn ra, bèn cứ đề phứa là Nguyễn Quốc Bờm cho nó đẹp đẽ, phân miêng sổ sách... Rốt cuộc, chính Bờm vẫn chẳng biết họ của mình là gì.
Bình thường, nếu là người đọc sách, dạy học như ông đồ Tú cuối làng, đều được cả làng gọi là ông Đồ Nguyễn hoặc bạn bè đồng môn trước đây gọi là Nguyễn tiên sinh. Còn người thường, không có gì nổi bật, thì chí ít cũng được gọi là anh cu, bố hĩm. Nó chẳng có gì na ná như vậy ngoài cái đầu bù xù khét nắng nên dân làng, vốn giản tiện, gọi béng là Bờm. Bờm chỉ khoái tắm sông thả diều, đốt rác ngoài đồng, ngủ trên bãi cỏ, nô với trẻ trâu... thấy cái thứ gọi là họ ấy cũng không có lợi hại gì, nên cũng chẳng để ý. Sau này, có ai trêu chọc mà hỏi, Bờm bảo họ của nó là Thằng. Thỉnh thoảng, đi qua lớp học của ông Đồ Nguyễn, ghé mắt nhòm vào thấy trên mặt giấy rặt có một thứ loằng ngoằng, dọc ngang chéo giật, Bờm tự thấy mừng cho mình vì chả có ai bắt nó đến đấy ngồi suốt ngày, còng cả lưng, rồi vẽ ra giấy những thứ chết tiệt như vết chân gà choai bới đất, đọc lên nghe lạ hoắc lạ huơ đến nẫu cả ruột.
Nghèo thì nghèo, Bờm cũng hữu sản đấy. Tài sản của Bờm là một cái quạt mo. Với người bình thường thì đồng tiền liền khúc ruột; Với Bờm, cái quạt mo là vật bất ly thân. Xem diễn chèo ở sân đình làng, thấy vua quan ông nào cũng cầm một cái quạt trên tay. Thế thì Bờm đâu có ý chơi trội. Người ta bảo Bờm dở hơi, Bờm dốt, Bờm mù chữ, Bờm ăn no vác nặng, ăn đói cũng vác nặng. Ừ thì dở hơi, nhưng Bờm lại biết bơi, và riêng cái khoản bơi lặn này thì cả làng đừng hòng có ai bì kịp.
Trong làng - trừ thằng mõ, thỉnh thoảng lén các cụ ngoài đình, dúi cho nó nắm xôi - Bờm chẳng thân với ai. Cả làng, từ người già đến con trẻ, chẳng ai coi nó vào đâu. Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ai cũng có thể tự cho mình cái quyền chính đáng lấy nó ra mà chấm phá vui vẻ, mà làm những trò cười cợt bỉ ố rồi cười ré lên với nhau cả một lượt. Từ bé, Bờm đã quá quen với những trò đó nên nó chẳng giận, lắm lúc còn thấy vui vui là khác. Cái cảm giác thấy mình vẫn còn hơn chán vạn một cái mụn cơm cũng không phải là xoàng. Vừa hiền lành, vừa ngố ngá, ai nói gì cũng chỉ ngẩn ngơ cười, lại không có tính dỗi giận, nó chẳng bao giờ có thể trở thành một kẻ hay ho đến mức khiến người khác phải sinh lòng tỵ hiềm mà ghen ghét hãm hại nên nó không có kẻ thù. Và, cũng vì thế nó chẳng thể có bụng ghét ai cho được. Tuy vậy, đôi lúc, như có Mẫu nhập, cái mồm của nó cũng không phải vừa! Kẻ hẹp lòng, thường khó chấp nhận những cái hay ho của người khác, thì bảo: Điếc hay ngóng, ngọng hay nói, chó ghẻ có mỡ ở đuôi... Người rộng bụng, lại có được ít chữ thánh hiền thì bảo: Bờm nhập đồng đấy! Tất nhiên, ngày nay, khi khoa vật lý chất rắn đã khá phát triển, thay vì dùng chữ nhập đồng, người ta hay nói thăng hoa; Của đáng tội, cái chữ ấy nghe có gì đấy rất tinh thâm, bay lượn đáo để và, điều quan trọng nhất, không phải ai cũng có thể lập tức hiểu được.
*
Mấy năm trước, người Tầu rầm rộ đem quân sang định cai trị nước Nam. Chẳng cần biết nếu kẻ ngoại bang đến thì cuộc sống của nó có trở nên tồi tệ hơn hay không, Bờm cũng cứ nằng nặc xin quan cho được sung vào lính. Rồi Bờm cũng băng rừng vượt núi, cũng màn trời chiếu đất, cũng cầm giáo xách khiên xung trận, cũng hò hét vang trời, hùng tráng chẳng kém ai: "Đả bỏ bu mấy thằng con giời đến cướp làng nước người ta đi!"
Giặc tan, vua trở về cung, quan trở về phủ, còn Bờm thì về làng, đầu đội nón dấu, chân quấn xà cạp. Trẻ con thấy lạ chạy theo hàng đàn. Người lớn dí dủm tò mò, quây lấy Bờm hỏi chuyện trận mạc. Ngày đầu còn oai phong vui vẻ; Sang ngày thứ hai thì đã nhàn nhạt; Đến ngày thứ ba thì Bờm đã thấy cái bụng của mình đang réo lên từng cơn từng hồi. Rốt cuộc, vẫn phải có cái gì đấy mà nhét vào bụng. Và như vậy, xem ra, vị thế của nó cũng chẳng có gì đổi thay. Vẫn chẳng ai coi nó vào đâu; Người ta đã quen mất cái nếp ấy đi rồi. Bờm cũng có bị hẫng hụt chút ít. Nhưng sự hẫng hụt của cái tâm trạng hân hoan đại tráng ấy rồi cũng qua ngay, bởi chính Bờm cũng chấp nhận và nhanh chóng trở về với cái nếp cũ rất quen thuộc ấy. Cuộc sống lại tiếp diễn, đều đều, đơn điệu như tiếng sáo diều ve vắt, trầm nhẫn ngoài bãi sông, bến nước. Vẫn như trước, ngoài cái quạt mo đã lên nước bóng láng, trong người Bờm chẳng có thêm vật gì, thậm chí chỉ là một cái dùi. Bờm không thích dùi; Nó bảo dùi là cái có thể làm đau người; Vả lại, trên cái giang sơn gấm vóc mà nó vừa đem thí cả cái thân thể hôi hám yêu quý của nó để khỏi bị người Tầu cướp mất, Bờm cũng chẳng có chỗ nào để có thể đàng hoàng cắm cái dùi đó xuống cho được. Cũng chỉ tại Bờm không có tiền, Bờm chỉ có độc cái thân xác. Thân xác của Bờm, chủ yếu, cũng chỉ có xương với máu. Mà thức gì cũng có mùa của nó: thứ này rất cao quý trong những đận trận mạc, nhưng đến lúc thái bình vãn hồi thì chỉ có thể bán cho Thiên Lôi! Khốn nỗi, Thiên Lôi lại là thần tiên. Thần tiên thì chỉ dùng loại tiền vàng mã.
Tiếp tục cuộc sống cũ: ai thuê cày thì Bờm cày, ai thuê tát nước thì Bờm tát nước, ai dựng nhà làm bếp thì Bờm đến khuân vác phụ giúp. Được cái, những nhà có việc hiếu việc hỷ, chẳng bao giờ người ta quên Bờm, bởi nó xăng xái và được việc, lại chỉ bảo ăn thì mới ăn, và không bao giờ mở miệng nói chuyện công xá. Mà dù nhà chủ có tử tế trả công thì nó cũng nhất định không nhận; Nó bảo: "Bờm nhận thì Bờm đếch dám nhìn mặt người làng nữa". Nếu trời cứ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt thì thỉnh thoảng Bờm mới bị đói. Trong làng, Bờm là người lao động tự do; Và xét trên một ý nghĩa nào đó, ít nhiều, Bờm là kẻ góp phần khai sáng ra một hình thái xã hội mà hàng trăm năm sau hậu duệ của Bờm gọi là xã hội công nghiệp.
Trong làng còn có Phú ông. Phú ông là người khỏe mạnh, da nâu râu rậm, mặt tựa chữ điền, giọng nói oang oang, thích rượu ngon gái đẹp, lắm vợ nhiều con và nổi tiếng là kẻ tham công tiếc việc, thường hay tính toán lo xa quá đáng, tự mình đày đọa cái thân mình, trần lưng làm lụng như trâu húc mả; Lại thêm bệnh hà tiện kinh niên, bóp mồm bóp miệng, hay tiếc của giời, nên có lúc trả công cho người làm cũng sát sao quá lắm. Tiếng là như vậy nhưng trời lại phú cho lão cái giọng nói sang sảng, cái lối đi đứng oai vệ; Oai vệ đến nỗi lý trưởng và các chức dịch trong làng trong xã cũng phải vô tình mà học theo. Lão quen thấy được mọi người trọng vọng nể vì. Kể cả hạng chức dịch hàng xã, tuy đã cố lấy cái vẻ công quyền nghiêm nhã để đãi giao mà vẫn không sao giấu được vẻ khúm núm dúm dó trước kẻ phú hào ngỗ ngược đó.
Hồi quân Tầu tràn sang, Phú ông lúc ấy tuổi cũng đã cưng cứng, chẳng có lệnh nào bắt mà cũng cứ nhất quyết đòi sung lính một lần với Bờm. Trong quân, Lão và Bờm là người cùng làng, lại được phiên vào cùng một ngũ, cùng xa nhà và sống giữa bao người khác xứ, nên có phần gần gũi nhau hơn. Trong trận hỗn chiến Bắc Thạch Sơn, trong lúc hò hét, đâm tả chém hữu, Phú ông bị trúng một mũi tên vào bả vai; Chính Bờm đã dìu lão ra xa nơi gươm giáo loạn xạ, nhổ mũi tên đó ra, nhai lá thuốc đắp vào vết thương và xé toang cái áo mới tinh mà thằng mõ dúi cho hôm lên đường xuất chinh, vừa buộc thuốc vừa cắm cảu:
- Đánh nhau mà mặt mày cứ hơn hớn lên dư thế thì nó bắn cho thế cũng là phải!
Phú ông ớ mặt, lấy tay trỏ vào mặt Bờm:
- Thằng này láo! Sao mày dám hỗn với ông?!
Đến lượt Bờm ớ mặt, rồi nó cũng nhớ ra Phú ông là ai, bèn chắp hai tay lại, bảy phần hối, ba phần nhả nhớt:
- Nhà cháu nhỡ mồm, ông tha cho, từ rày không nói nữa! Nhưng... - Như chợt nhớ ra điều gì, Bờm hét tướng lên - Đếch được!
- Sao lại không được?
- Có mồm mà đếch được nói thì hóa ra cái giống trâu bò à? Làm trâu bò để suốt ngày bị ông hết vắt rồi lại diệc à? Còn xơi nhá! Nhà cháu đếch phải là cái giống ấy đâu nhá, đừng có mà mơ!
- Thế những thằng câm thì chúng nó là trâu bò cả đấy?
- Bị câm thì kể làm chó gì! Còn Bờm đây đếch bị câm. Đếch bị câm mà không được nói thì chết cụ nó đi cho khỏe ma! Dưng mà Bờm đây lại... - Nó đưa tay lên gãi gáy, ngoẹo đầu, cười tinh quái - ... Ngại chết lắm!
Một lần, trong một đêm ngủ rừng, Phú ông bảo:
- Mày đúng là thằng dớ dẩn, đếch ai bắt lính thằng dở hơi mà phải tớn vào lính cho nó khổ ải!
- Nhà cháu cứ tưởng ông là người giàu có thì tinh khôn lắm, hôm nay mới thấy hóa ra đếch phải.
- Tiên sư thằng ranh! Mày tinh khôn thì nói ông nghe tại sao tự dưng lại đâm đầu vào chỗ khổ ải?
Bờm cười nhăn nhở, gãi bụng sồn sột, rồi, đột nhiên, vỗ đùi đánh đét một cái:
- Có nhẽ nhà ông tối dạ thật! Thôi, để nhà cháu giảng cho mà nghe nhá: khổ... thì cũng chả khổ hơn lúc ở làng, dưng mà nhà cháu được no cái bụng, được đối xử ngang phân với nhà ông. Ối giời ơi, thế mà cũng đòi vác mặt làm người giàu cơ đấy giời ạ.
- Mày có thể bị bỏ mạng nơi trận mạc.
- Chậc... chết thì cũng có khác chi người đi ngủ tít thò lò, mà lại được cái oai phong vẻ vang với thiên hạ làng nước.
Rồi Bờm cứ thế nằm ngửa, giơ hai chân lên trời quẫy đạp nhung nhăng mà cười ngặt cười nghẽo. Cười chán, rồi nó vặn lại:
- Thế dưng nhà ông có nhiều thóc lúa, của tiền, vua lại chửa bắt đến, sao không ở nhà mà hưởng cho nó phè phỡn cái thân xác, không dưng đâm đầu vào chỗ đâm chém nhau đến nỗi tóe cha nó cả máu ra?
- Cái thằng... hỗn như ranh! Ngu như mày thì hiểu thế chó nào được! Để ông giảng cho mà nghe: nếu giặc nó thắng, nó bắt vua mình đi thì mày có thấy bẽ không?
- Ừ nhỉ! - Bờm ngẩn mặt, thôi không cười nữa.
- Nhục cái mặt lắm con ạ! Mà thằng giặc nó thắng thì nó đến nó cướp ráo đi ấy chứ; Nhà tao còn giữ được thóc lúa của tiền à? Còn cái chó gì nữa mà phè phỡn cái thân xác? Có mà cả làng cả nước hóa ráo thành cái giống bờm nhà mày hết thôi con ạ! Nhục lắm! Nhục lắm! - Phú ông ngán ngẩm lắc đầu - Mỗi làng chỉ có một thằng bờm đã là quá nhiều rồi. Hóa nên tao mới chủ tâm đi đánh cho bỏ con mẹ cái lũ chúng nó đi!
Khi giặc tan, cả hai khăn gói quả mướp về làng.
(Số sau đăng tiếp)