Những bài thơ viết trực tiếp hay gián tiếp về mùa xuân của Nguyễn Đình Thi có đặc điểm chung là ngắn gọn, hàm chứa lượng thông tin thẩm mỹ cao như Về nhà (1948), Chim én (1959), Đóa hoa nghệ (1954), Mùa xuân (1977), Buổi chiều cuối năm, Hoa đào, Tóc bạc, Giao thừa (4 bài thơ sau không ghi chú năm sáng tác).
Run bật cảm xúc
|
Mùa xuân (1977) là bài thơ có thể nói tiêu biểu nhất cho cảm xúc về mùa mở đầu một năm trong thơ Nguyễn Đình Thi. Nếu chú ý đến thời điểm sáng tác, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn nhiệt hứng của thi sĩ khi viết bài thơ này. Đó là những ngày vui làm say lòng người giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn gấm vóc thu về một mối: Tất cả lại bắt đầu - tất cả/ Những ngày tháng những đời người/ Giữa nghìn vất vả những niềm vui/ Tất cả lại nẩy chồi tươi biếc. Ngắm những chồi biếc của mùa xuân thiên nhiên và mùa xuân cuộc đời, những con người có lương tri sẽ không thể quên những Bùn bết máu trên mặt người tử sĩ. Nhưng rồi vượt lên trên tất cả gian khổ hy sinh, một sớm mai nào ta ngỡ ngàng trước cảnh: Lá non đã xanh rờn mặt đất/ Mùa xuân đang nói về hạnh phúc/ Cánh chim bay trên sông núi lạ lùng/Giữa ngàn cây/ Gội sương giá tình yêu đến. Thơ Nguyễn Đình Thi không nhiều “vần vè”, vì thế chỉ có thể cảm nhận bằng cả sự run bật cảm xúc mà thi sĩ truyền đến độc giả với tinh thần “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”.
Bài thơ Chim én (1959) mang ý nghĩa biểu tượng vì chim én gắn với mùa xuân. Bài thơ thể “lục ngôn” này rất lạ về hình thức, nhưng ngẫm ngợi sẽ thấy những câu thơ sáu chữ sẽ trải rộng không gian và thời gian, trải rộng cảm xúc của con người trước một trong bốn mùa của tạo hóa: Ngô xanh ngắt bãi phù sa/ Gió mát rượi sóng Hồng Hà/ Mùa xuân đến rồi - chim én/ Bay về từ những núi xa/ Buổi chiều trên sông dịu êm/ Cánh chim rợp cả bến thuyền/ Mưa bay ướt đầu em gái/ Dưới sông gánh nước đi lên.
Với Đóa hoa nghệ, nếu căn cứ vào nhan đề thì không có vẻ gì gắn với mùa xuân, nhưng đọc xong bài thơ chỉ có 8 dòng lại thấy hiển hiện một mùa xuân chiến trận: Sáng nay giữa Điện Biên dữ dội/ Những chiến hào bỗng thấy mùa xuân/ Ô lạ khắp mặt đồi đen trụi/ Hoa nghệ xôn xao nở tím hồng. Ai đó từng bi quan: “Khi đại bác gầm thì họa mi ngưng tiếng”, thì sẽ lạc quan hơn nếu đọc bài thơ này của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ hơn “sự sống không bao giờ chán nản” và cái đẹp, đặc biệt là cái đẹp của thiên nhiên, tạo vật là duy nhất đứng ngoài quy luật của sự băng hoại.
Chung - riêng hòa quyện
Cũng có lúc là cảm xúc nghẹn ngào pha lẫn lòng căm hận quân xâm lược đã tước đoạt niềm vui sum họp khi xuân về Tết đến: Về nhà chiều ba mươi/ Áo ướt đầm hai vai/ Giữa trời mưa đứng sững/ Nhìn quanh không một ai; Cỏ dại leo lên thềm/ Hàng cau đứng lắng yên/ Bếp từ lâu đã lạnh/ Vại nước còn đầy nguyên (Về nhà). Bài thơ này viết năm 1948, khi cuộc chiến tranh đang vào hồi ác liệt. Đêm hôm đó - đêm ba mươi - cái thời khắc năm hết Tết đến - người lính ngồi một mình bên đống lửa trầm tư: Đêm khuya ngồi đốt lửa/ Ngoài hiên mưa rào rào/ Thương vợ suốt đời khổ/ Hai hàng nước mắt dào. Suốt cả đêm nghe súng nổ, lòng người lính dội lên bao lo âu, khắc khoải: Em nuôi đàn con nhỏ/ Trăm nghìn nỗi gian lao/ Suốt đêm trường súng nổ/ Em gánh con đi đâu. Thơ Nguyễn Đình Thi giàu tính chất tâm tình, tâm sự là vậy, cái chung và cái riêng hòa quyện thấu đáo nên mỗi câu, mỗi chữ đều chinh phục được độc giả.
![]() |
Buổi chiều cuối năm là bài thơ văn xuôi viết về một buổi chiều mùa đông, nhưng trong cái tê buốt ấy đã ló rạng hơi ấm của mùa xuân: Buổi chiều cuối năm, mùa đông mải miết rải mưa phùn lên mặt đất giá buốt (…)/ Và mùa đông lại quạt gió bấc ào ào/... Bên kia chân trời, phía xa, mùa xuân bay thấp thoáng, môi chúm chím nụ cười không thể giữ lại được. Và mặc dù Mùa đông mở to đôi mắt ướt đầm sương thì cũng không thể nào ngăn nổi: Khắp mặt đất đã lấm tấm xanh. Muôn nghìn đốm vàng nghiêng ngả. Phép nhân hóa sử dụng đắc địa trong trường hợp này khiến cho tạo vật thiên nhiên như một cơ thể sống có linh hồn, sinh động và gần gũi với con người. Trong một bài thơ văn xuôi khác - Những chiếc lá - Nguyễn Đình Thi đã quan sát những chiếc lá trên cây, đã mượn lời của lá để đoán định bốn mùa: Này đây khi xuân về thì Đâu những ngày xuân, chúng ta xòe biếc đón về ríu rít những đàn chim; này đây những ngày hè nồng nàn thì Những buổi trưa hè, chúng ta um tùm che mát cho người đi đường mồ hôi nhễ nhại...
Trong những sắc màu của Tết có sắc màu của Hoa đào: Hoa đào nở hồng lối vào xóm nhỏ/ Chim én bay về nghiêng cánh buồn vui/ Sông lạnh tỏa sương mờ bến cũ/ Ai trên đê cao đôi mắt bồi hồi. Cảnh và tình hòa quyện làm ấm lên bức tranh xuân mà hoa đào đứng ở vị trí trung tâm nhưng không che khuất gương mặt con người.
Ngay cả lúc viết về tuổi già như một quy luật không cưỡng lại được của kiếp người thì nhà thơ cũng vẫn lạc quan thổi vào thơ niềm vui sống: Tóc bạc trong mưa bay anh cười/ Tôi không nói được mình đã trải đời/ Không nói được mình đã hiểu người/ Không dám nói mình đã biết yêu/ Không dám nói mình đã biết sống/ Mỗi bước mùa Xuân đến kia dịu dàng trên cỏ non/ Cả tổ ong hồn tôi cuống quýt rộn ràng... (Tóc bạc). Tại thời khắc Giao thừa, nhan đề bài thơ gần cuối đời của thi sĩ, độc giả thêm lần nữa thấm thía hơn quy luật vận động của tự nhiên và con người khi vượt qua được những thử thách của tạo hóa để chiếm lĩnh một thế giới Nguyên sơ và trong sạch hơn/ Như nước như lửa...
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài, đủ “cầm - kỳ - thi - họa”. Riêng trong lĩnh vực sáng tạo văn chương, tài năng của ông chia đều cho thơ, kịch, tiểu thuyết, lý luận - phê bình. Chân dung nghệ thuật Nguyễn Đình Thi, theo tôi, được khắc họa rõ nét nhất trong thơ. Chính ông không phải ai khác, từ trong kháng chiến chống Pháp gian khổ đã mở ra lối thơ tự do, phóng khoáng. Chính ông là một trong những nhà thơ đầu tiên sau 1945 đã tạo tác nên hình tượng Đất nước bất hủ trong thơ ca Việt Nam hiện đại (bài thơ Đất nước, 1948 - 1955, có thể coi là một “tượng đài bằng thơ” về Tổ quốc). |