![]() |
Châu bản Triều Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 18 (1837) khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam |
Nguồn: vinhphuc.gov.vn |
Ts Nguyễn Nhã, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cho rằng: Các châu bản có tầm quan trọng mang tính nhà nước rõ ràng chứ không phải suy diễn. Đây là bằng chứng chỉ có Việt Nam mới có, rất phù hợp với luật pháp quốc tế cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo Ts Nguyễn Nhã, văn bản năm 1836 là quan trọng nhất. Trong phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), trong tập châu bản Minh Mạng 55, trang 336:
Bộ Công phúc trình: nay tiếp nhận công văn của Nội các vâng mệnh giao cho Bộ thần có châu phê: “Các thuyền được phái đi Hoàng Sa, mỗi thuyền phải đem theo 10 cọc gỗ (cột mốc), mỗi cọc dài 4, 5 thước rộng 5 tấc, dầy 1 tấc, khắc sâu hàng chữ: Năm Bính Thân (Minh Mạng thứ 17), các viên cai đội thủy quân vâng mệnh đi Hoàng Sa khảo sát, đến đó thì cắm cột mốc, đánh dấu”. Hãy tuân mệnh.
Lần này, viên chánh đội trưởng Thủy quân được cử đến Hoàng Sa là Phạm Hữu Nhật, giờ Mão hôm trước đã đi thuyền từ cửa Thuận An đến tỉnh [Quảng] Ngãi. Bộ thần xin chuẩn bị gấp số cọc gỗ theo số lượng, gửi tư khẩn cho tỉnh Quảng Ngãi, chuyển ngay [số cọc gỗ ấy] cho viên này.
Vậy xin phúc trình
Qua những châu bản còn lại ta thấy, nhiệm vụ đi công tác của thủy quân với sự hỗ trợ của dân binh, dân phu ở Hoàng Sa là thăm dò, khảo sát (Châu bản Bộ Công tâu ngày 26 tháng giêng năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) ghi rõ ngày tháng 6 năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) hoãn việc người đi thăm dò, khảo sát Hoàng Sa. Việc thăm dò, khảo sát cụ thể ra sao thì trong các châu bản khác có nói như: trước hết là ghi nhật ký khảo sát, vẽ bản đồ tương đối có nhiều châu bản đề cập đến trực tiếp hoặc gián tiếp. Có châu bản Phúc tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 17 (1836), hiện lưu giữ tại Ủy ban Biên giới Quốc gia, Bộ Ngoại giao có giá trị quan trọng, ghi rõ việc cử Thủy quân với hỗ trợ của dân binh, dân phu đi cắm cột mốc chủ quyền. Bộ Công đã phúc tấu rằng nay tiếp nhận công văn của Nội các vâng mệnh giao cho Bộ Thần (Bộ Công) trong đó có châu phê như ghi ở trên. Vua Minh Mạng đã viết quy định độ dài, độ rộng, độ dày của cột mốc (Mộc bài) và nội dung viết trên cột mốc và thuyền đến nơi nào lập tức dựng cọc làm mốc (Mỗ thuyền đáo xứ tức thụ mộc vi chí). Chắc chưa có vị hoàng đế nào trên thế giới, kể cả Trung Quốc lại quan tâm chi li đến việc cắm mốc chủ quyền ở biển đảo như Hoàng đế Minh Mạng của Việt Nam.
Chính sử biên niên Đại Nam Thực Lục Chính Biên, thông sử Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, nhất là sách điển chế Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ cũng chép việc đi cắm cột mốc chủ quyền từ năm Bính Thân (1836) trở thành lệ hàng năm. Trước đó, các năm 1833, 1834, 1835 cũng đã có đoàn thủy quân được cử đi công tác tại Hoàng Sa. Ngoài hai nhiệm vụ chính là khảo sát, đo đạc, vẽ bản đồ và cắm mốc cột mốc chủ quyền mà các châu bản đã ghi chép, qua nội dung các tư liệu khác như chính sử, hội điển… người ta còn thấy nhiệm vụ cụ thể như dựng bia, xây dựng miếu thờ, trồng cây cũng như lượm lặt các sản vật như san hô, rùa biển, cả súng đại bác.
Việt Nam không những có bằng chứng văn bản nhà nước như trên mà còn quá nhiều bằng chứng của chính sử như Đại Việt Sử Ký tục biên thời Trịnh Sâm thế kỷ XVIII, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, sách Hội điển như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ, sách địa chí như Hoàng Việt Dư Địa Chí thế kỷ XIX hay Đại Nam Nhất thống Chí đầu thế kỷ XX, sách của các sử gia uy tín như Phủ Biên Tạp Lục thế kỷ XVIII của Lê Quý Đôn, Dư địa chí của Phan Huy Chú, Việt sử cương giám khảo lược của Nguyễn Thông ở thế kỷ XIX và vô số tài liệu phương Tây có trình bày chủ quyền Hoàng Sa thuộc Việt Nam từ lâu, trước năm 1909 là năm Trung Quốc bắt đầu tranh chấp chủ quyền với Việt Nam.
Ts Nguyễn Nhã nhấn mạnh: Không có cách nào khác sự thật lịch sử phải được tôn trọng, cũng như Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế như Luật Biển 1982 mà bất cứ quốc gia nào đã ký phải được tôn trọng. Sự đấu tranh cho lẽ phải, sự thật lịch sử, tôn trọng luật pháp quốc tế không những cho trật tự, hòa bình thế giới, cho tương lai Việt Nam mà còn cho trật tự hòa bình, sự tồn tại của Trái đất, của thế giới và cả tương lai của nhân loại.