Năm mươi tuổi, Guru Khan rời bỏ làng, đi vào vùng núi sâu. Không ai biết nguyên nhân do đâu. Vợ con không biết, họ hàng thân thích không biết. Cả Paxeh San người bạn thân mỗi chiều trà đàm của ông, cũng không biết. Guru Khan nổi tiếng cao chữ được dân làng trọng vọng, gia đình thì đang yên đang lành, vậy mà đột nhiên ông bỏ đi lên núi. Không ai hiểu tại sao, vì đâu. Đầu hôm, Guru Khan nói với vợ: “Mình cần lên núi ẩn tu, mẹ nó à”. Bà Khan không nói gì, lục tục thu xếp hành lý cho ông. Nửa đêm hôm đó, ông đi. Với gói đồ đạc, gọn và nhẹ. Thêm cái rựa với cây cuốc.
Người Khmer được đẩy vào chùa ngay từ bé rèn luyện cho đến lúc trưởng thành. Tại đây, có hai lối đi chọn lựa: hoặc trở thành thầy tu chuyên nghiệp hoặc tự tin đi vào đời, dựng nghiệp, lấy vợ, sinh con đẻ cái. Người Chăm thì khác. Ông bị ném thẳng vào trường đời để ngụp lặn, tôi luyện trong nó. Rồi ở tuổi đứng bóng mặt trời, khi đã có cơ nghiệp vững chãi, ông có hai con đường để chọn lựa: hoặc ông chìm nghỉm trong nó hoặc ông bứt ra khỏi nó, để đi trên con đường trầm tưởng của riêng ông.
Trắng tay và trắng hồn, ông đi vào đời với bàn chân mới lạ và cái nhìn tinh khôi. Cuộc đời với ông nhiều bất trắc nhưng đầy huyền nhiệm. Nó có thể đè bẹp thân ông hoặc đập vỡ tim ông để tâm hồn ông bật lên tiếng hát đau thương linh thánh. Rồi khi ông đã thấm đẫm nỗi đời, đã vượt qua được dòng sông cuồn cuộn đau khổ của cuộc đời, lòng ông đã lắng, nhìn trở lại con sông, ông suy nghiệm cuộc đời.
Con mắt cuộc đời sâu thẳm nhìn ông: con mắt hà khắc đầy trìu mến yêu thương. Cuộc đời với ông là Một. Một duy nhất, hiểm nguy, bỏng cháy và lôi cuốn.
![]() Minh họa của Thúy Hằng |
Chín năm sau, sáng dậy mở cửa chòi, Guru Khan nhìn thấy một người đàn ông đứng sững trước mặt. Đứng đó, có lẽ đã khá lâu. Một người nông dân quen biết, tuổi độ tứ tuần. Guru Khan hỏi:
- Ông lên đây tìm tôi có việc chi không?
- Dạ, con lên gặp Guru xin học đạo - người nông dân nói.
Guru Khan nhìn sâu vào mắt người đàn ông hồi lâu. Cuối cùng Guru nói:
- Dạy ngươi kinh sách thì ta lại phải học thêm gấp hai lần ngươi. Ta đã già, không có của cải gì cả.
Không chần chừ, người nông dân bảo:
- Nhà con có non mẫu ruộng, con xin hiến cho Guru.
- Ta không có trâu để cày.
- Con có cặp trâu đã thuần.
- Ta cũng không có người chăn trâu.
- Con có đứa con trai khỏe mạnh - người nông dân nói sau giây lát ngập ngừng.
- Ta sống cô đơn, không có ai lo cơm nước.
- Con nguyện lo cho Guru.
- Không, ta và ngươi dành hết thời gian cho học tập và tu luyện.
- Nhà ngươi có vợ chứ? - Sau một hồi im lặng, vị sư hỏi.
Người nông dân lưỡng lự giây lát, cuối cùng ông nói dạ một tiếng vừa đủ cho người đối diện nghe.
Hôm sau, người nông dân đi qua chòi vị sư Bàlamôn cùng tài sản và hai người thân yêu của mình. Căn chòi được cơi nới. Thêm ba sinh linh, nhưng căn chòi vẫn cô độc và câm lặng giữa núi rừng hoang vu, tĩnh tịch.
Một, hai rồi ba tháng, người học trò chỉ được vị sư phân công chép một bản kinh duy nhất. Lần thứ nhất, thứ hai, rồi thứ ba… vị sư Bàlamôn đều lắc đầu và bảo chép lại. Khi người học trò mang bản kinh chép lần thứ bảy đến trình, Guru Khan nói:
- Được rồi, lòng con không còn bợn bụi trần. Ta có thể truyền dạy cho con tinh hoa giáo lý Bàlamôn.
Khi tôi còn chưa cắp sách đến trường, cha dạy tôi thuộc lòng: Tikuh, Kabaw, Rimaung, Tapay, Inư Girai, Ula Anaih... Sau đó là Tí, Sửu, Dần… Tôi nằm úp ngực sàn nhà mà vẽ chữ. Từng chữ từng nét. Tôi hỏi cha: - Sao cứ phải ula anaih mà không la neh cho nhanh, con thấy ai cũng nói thế mà? - Không nhanh được, - cha bảo. Bốn mươi năm sau, bà xã hay độn tiếng Việt vào câu tiếng Chăm - để cho nhanh - em ngụy biện. Nhanh, đó là đặc tính của văn minh hiện đại, trong khi học thì phải thật chậm.
Đánh vần TÍ, cha dạy: akhar kak takai kuk pauh danih lang likuk akhar tak takai kik, kak kuk dani kuh tak tik TIKUH. Chẳng phiền ai cả, êm như ru, đánh vần mà như hát. Sau một góc tư thế kỷ, sách giáo khoa mới biên soạn dạy con cháu: k - uh - kak uh kuh - TIKUH. Nhanh, gọn, rất fast food ăn nhanh! Nhưng học thì phải chậm. Thông minh đến đâu cũng nên chậm, - ông ngoại nói. Ông ngoại là thầy cao đạo trong vùng. Đêm trăng sáng, nằm ngửa trên chõng tre ngoài sân, ông ngâm cho tôi nghe Trường ca Glơng Anak. Đoạn đó cháu thuộc rồi ông à - tôi nói. - Thuộc rồi cũng phải học lại - ông ngoại bảo. Mãi sau này, tôi mới hiểu người Guru cao đạo ấy: thuộc cũng cần đọc lại.
Ba năm trôi qua. Sau một buổi thiền định, Guru Khan nói với đồ đệ:
- Vụ gieo cuối cùng đã mãn, con có thể cho cháu dắt trâu về.
Nửa năm sau, Guru nói:
- Vụ gặt cuối cùng đã xong, bây giờ phần mẫu ruộng lại thuộc về con.
Cuối cùng, một buổi chiều như mọi buổi chiều, Guru Khan bảo:
- Bữa cơm cuối cùng đã dùng, người vợ của con có thể về nhà. Và cả con nữa, bài học cuối cùng đã dứt, con không phải cần đến ta nữa.
- Thưa Guru, con xin ở lại suốt đời phụng sự Guru.
- Không, ông phải tự đi một mình. Để sau này ông còn phải làm thầy. Cả ta, ta cũng không cần đến ông nữa.
Vị sư già nói xong, quay lưng bước vào chòi, khép cửa lại.