Chính sách bảo hiểm thất nghiệp mở rộng đối tượng thụ hưởng

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp trở thành công cụ quan trọng để quản trị thị trường lao động, góp phần xây dựng thị trường lao động chất lượng cao, có tính cạnh tranh và vận hành minh bạch, hiệu quả. Trong thời buổi kinh tế khó khăn, bảo hiểm thất nghiệp được xem là phao cứu sinh giải quyết không ít khó khăn cho người lao động

Chính sách ngày càng hoàn thiện

Ông Trần Tuấn Tú, Trưởng phòng Bảo hiểm thất nghiệp, Cục Việc làm, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho rằng, sau hơn 14 năm triển khai, chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã khẳng định vai trò là chính sách an sinh xã hội, bệ đỡ cho người lao động bị giảm thu nhập, mất việc.

Kể từ khi chính sách được thực hiện vào năm 2009, ban đầu dự kiến có khoảng 4,5 triệu người tham gia, nhưng ngay năm đầu tiên đã có 5,9 triệu người tham gia. Hiện nay, cùng với lộ trình mở rộng đối tượng, công tác tuyên truyền, thì số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp hàng năm đều tăng. Do đó, ngày càng nhiều người được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp mở rộng đối tượng thụ hưởng -0
Chính sách bảo hiểm thất nghiệp đã thu hút ngày càng nhiều người tham gia, khẳng định vai trò giá đỡ an sinh cho người lao động. Nguồn: ITN

Cao điểm nhất năm 2020 có hơn 1 triệu người được hưởng trợ cấp thất nghiệp. Hiện nay có hơn 8 triệu lượt người được hưởng trợ cấp thất nghiệp, hơn 270.000 người được hưởng hỗ trợ học nghề từ chính sách này, trên 13 triệu lượt người được tư vấn giới thiệu việc làm.

Chính sách càng phát huy hiệu quả trong thời điểm dịch Covid-19 năm 2020, 2021, thông qua một số chính sách từ Nghị quyết 42, Nghị quyết 68, Nghị quyết 03, Nghị quyết 24 về việc hỗ trợ người lao động, người sử dụng lao động từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp trên cơ sở sử dụng kết dư quỹ này.

Riêng trong hai năm 2021, 2022, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã hỗ trợ cho trên 13 triệu người lao động, với số tiền trên 31 nghìn tỷ đồng, giảm đóng cho trên 446.000 đơn vị sử dụng lao động, với số tiền trên 9.100 tỷ đồng. Tổng số hỗ trợ qua gói từ Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là hơn 41 nghìn tỷ đồng. Qua đó, đã khẳng định vai trò của chính sách bảo hiểm thất nghiệp trong bối cảnh bình thường, và trong bối cảnh bất thường như dịch Covid-19.

Hiện nay chính sách này cũng càng ngày càng được hoàn thiện hơn, đặc biệt sắp tới khi sửa đổi Luật Việc làm. Theo Cục trưởng Cục Việc làm Vũ Trọng Bình, Luật Việc làm sẽ sửa đổi 4 nhóm chính sách lớn nhằm đẩy mạnh hỗ trợ người lao động và thúc đẩy việc làm bền vững.

Trong đó, với nhóm chính sách thứ hai là hoàn thiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp làm công cụ quản trị thị trường lao động. Luật sửa đổi, bổ sung sẽ mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp, bảo đảm việc làm cho người lao động, phát huy đầy đủ các chức năng của bảo hiểm thất nghiệp, bảo đảm bảo hiểm thất nghiệp là công cụ quản trị thị trường lao động

Góp phần bảo đảm an sinh xã hội

Theo Điều 42 Luật Việc làm năm 2013, chính sách bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: Trợ cấp thất nghiệp; hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho người lao động.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp mở rộng đối tượng thụ hưởng -0
Người lao động được tư vấn, giới thiệu việc làm tại Hà Nội. Nguồn: ITN

Trong đó, về tiền trợ cấp thất nghiệp, theo Điều 50 Luật Việc làm 2013, tiền trợ cấp thất nghiệp được chi trả hằng tháng cho người lao động. Mỗi tháng, người lao động thất nghiệp phải đi thông báo tình hình tìm kiếm việc làm mới được nhận tiền trợ cấp.

Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. Mức hưởng trợ cấp thất nghiệp tối đa không quá 5 lần mức lương cơ sở đối với người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định, hoặc không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Bộ luật Lao động, đối với người lao động đóng bảo hiểm thất nghiệp theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định tại thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động, hoặc hợp đồng làm việc.

Thời gian người lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp được xác định theo số tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp: Đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 - 36 tháng được hưởng 3 tháng trợ cấp. Sau đó, cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ thêm 12 tháng được hưởng thêm 1 tháng trợ cấp. Thời gian hưởng tối đa bằng 12 tháng.

Về hỗ trợ tư vấn, giới thiệu việc làm, theo Điều 54 Luật Việc làm 2013, người lao động bị bị thất nghiệp được tư vấn, giới thiệu việc làm miễn phí thông qua trung tâm dịch vụ việc làm.

Về hỗ trợ học nghề, căn cứ Điều 3 Quyết định 17/2021/QĐ-TTg, người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ được hỗ trợ học nghề như sau: Khóa đào tạo nghề đến 3 tháng, mức hỗ trợ tính theo mức thu học phí của cơ sở đào tạo nghề nghiệp và thời gian học nghề thực tế nhưng tối đa 4,5 triệu đồng/người/khóa đào tạo. Khóa đào tạo nghề trên 3 tháng, mức hỗ trợ tính theo tháng, mức thu học phí và thời gian học nghề thực tế nhưng tối đa 1,5 triệu đồng/người/tháng.

Về hỗ trợ đào tạo để duy trì việc làm cho người lao động, theo Điều 4 Nghị định 28/2015/NĐ-CP, người sử dụng lao động đủ điều kiện sẽ được hỗ trợ kinh phí cho việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề nhằm duy trì việc làm cho người lao động như sau: Mức hỗ trợ tối đa 1 triệu đồng/người/tháng. Trong đó, mức hỗ trợ cụ thể được tính theo tháng, thời gian học thực tế của từng nghề hoặc từng khóa học nhưng không quá 6 tháng.

Đời sống

Các đại biểu tham dự chương trình. Ảnh: Lăng Dành
Xã hội

Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nắm bắt tình hình

Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã thành lập trên 2.100 Tổ Dân vận cộng đồng ở 100% thôn, bản, tổ dân phố, trong đó có vùng đồng bào dân tộc thiểu số để nắm tình hình và đề xuất các cấp ủy Đảng, chính quyền giải quyết những vấn đề liên quan đến người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Các tổ dân vận đã tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong nắm bắt tình hình thông qua thành lập các nhóm Zalo “Tổ Dân vận nòng cốt vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”.

Khắc phục bất cập về điều kiện bảo đảm tổ chức, hoạt động
Đời sống

Khắc phục bất cập về điều kiện bảo đảm tổ chức, hoạt động

Về điều kiện bảo đảm tổ chức, hoạt động của công đoàn, dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi) có quy định, cán bộ công đoàn không chuyên trách được bảo đảm thời gian thực hiện nhiệm vụ của công đoàn; tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, thời lượng cụ thể dành cho công tác công đoàn còn thiếu thực tế, không khả thi. Do đó, cần nghiên cứu để có những quy định phù hợp, bảo đảm tổ chức công đoàn có vị thế, hoạt động độc lập, không phụ thuộc vào người sử dụng lao động.

Dấu mốc quan trọng
Đời sống

Dấu mốc quan trọng

Trong bối cảnh số lượng doanh nghiệp và người lao động, đoàn viên ngày càng tăng, nhiệm vụ của công đoàn càng thêm nặng nề. Để hoàn thành nhiệm vụ này, hành lang pháp lý về công đoàn cần phải tiếp tục được hoàn thiện. Luật Công đoàn (sửa đổi) nếu được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ Tám này sẽ là dấu mốc rất quan trọng thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, nâng cao vị thế và khẳng định vai trò, hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong bối cảnh hiện nay.

Ổn định phúc lợi cho người lao động
Đời sống

Ổn định phúc lợi cho người lao động

Theo đánh giá của các ĐBQH, việc duy trì kinh phí công đoàn là một yếu tố quan trọng không chỉ giúp tổ chức công đoàn hoạt động hiệu quả mà còn bảo đảm nguồn lực để công đoàn khẳng định được trách nhiệm, vai trò của mình để tiếp tục chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.

Phát huy quyền chủ động giám sát
Đời sống

Phát huy quyền chủ động giám sát

Một trong những nội dung đáng chú ý trong dự thảo Luật Công đoàn (sửa đổi) đang được Quốc hội thảo luận và xem xét thông qua trong Kỳ họp thứ Tám là quy định giám sát của công đoàn. Quy định này đã nhận được sự đồng tình của nhiều ĐBQH nhằm phát huy quyền chủ động thực hiện giám sát của tổ chức công đoàn, góp phần phát hiện sớm vi phạm tại đơn vị sử dụng lao động để kiến nghị chấn chỉnh hoặc xử lý kịp thời…

Cần lộ trình tăng thuế hợp lý
Xã hội

Cần lộ trình tăng thuế hợp lý

Mục tiêu chính của thuế tiêu thụ đặc biệt là điều chỉnh hành vi tiêu dùng, không phải tăng thu ngân sách. Đối với thuốc lá, đây là sản phẩm có hại cho sức khỏe, nhưng chính sách thuế cần có lộ trình phù hợp, phải khuyến khích thay đổi hành vi theo hướng lành mạnh hơn, thay vì tạo cơ hội cho việc sử dụng các sản phẩm thay thế không đảm bảo chất lượng, hay buôn lậu.