Góp ý về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án quy định tại Điều 3 của dự thảo luật, đại biểu Trần Đức Thuận đồng tình với việc quy định nội dung: “thực hiện quyền tư pháp” của Tòa án. Bởi, đây là nội dung nhằm cụ thể hóa quy định tại khoản 1 Điều 102 Hiến pháp năm 2013: “Tòa án Nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” nhưng Luật hiện hành chưa quy định việc “thực hiện quyền tư pháp” của Tòa án là những nhiệm vụ, quyền hạn nào nên gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Tòa án thực hiện toàn bộ quyền tư pháp hay chỉ thực hiện một số nhiệm vụ của quyền tư pháp?
Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo và cơ quan chủ trì thẩm tra cần nghiên cứu các quy định của Đảng, của Hiến pháp và hệ thống pháp luật hiện nay để quy định “thực hiện quyền tư pháp” của Tòa án cho phù hợp, nhất là việc giao các nhiệm vụ mới, quyền hạn mới cho Tòa án ảnh hưởng đến chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan khác. Việc giao quyền tư pháp cho Tòa án cần phù hợp với thể chế chính trị của Việt Nam, đó là: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp 2013 cũng quy định “Tòa án thực hiện quyền tư pháp”, chứ không phải “chỉ có Tòa án thực hiện quyền tư pháp”. Theo Điều 4, Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014: "Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát Nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”. Như vậy, hoạt động tư pháp rất nhiều nhiệm vụ và hiện nay đang giao cho nhiều cơ quan thực hiện như: tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra, thi hành án, trại tạm giam, trại giam, cơ quan giám định tư pháp…
Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ được quy định tại Điều 15, đại biểu Trần Đức Thuận nhận thấy, Dự thảo Luật bỏ đi một số quyền của Tòa án theo Luật hiện hành. Cụ thể: khi xét xử các vụ án hình sự, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ theo quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính...
Theo đại biểu, việc lược bớt các quyền trên của Tòa án là chưa phù hợp với thực tiễn. Lý giải việc này, đại biểu cho rằng: việc thu thập chứng cứ của cơ quan điều tra, viện kiểm sát trong các vụ án hình sự là trách nhiệm và nghĩa vụ. Thực tiễn không thể tránh khỏi việc điều tra viên, kiểm sát viên, đương sự, người tham gia tố tụng khác vì động cơ nào đó thu thập chứng cứ không đầy đủ, không khách quan, có thể tạo dựng chứng cứ giả. Nếu Tòa án không có quyền “kiểm tra, xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ” thì sẽ không thể kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; không bảo đảm việc xét xử độc lập của Tòa án; dễ gây ra tình trạng trả hồ sơ điều tra vụ án, trong khi vụ án thiếu các chứng cứ mà Tòa án có thể bổ sung, do đó sẽ khiến thời gian giải quyết các vụ án giải quyết kéo dài, thậm chí tồn đọng.
Cũng theo đại biểu, các quyền trên của Tòa án tạo điều kiện cho Thẩm phán chủ tọa phiên tòa tự tin ra các bản án đúng pháp luật, khi mà các chứng cứ của cơ quan điều tra, viện kiểm sát, đương sự thu thập có nghi ngờ về tính hợp pháp và không bảo đảm khách quan.
Từ thực tế trên, đại biểu đề nghị trong Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (sửa đổi) nên cân nhắc việc lược bớt quyền của Tòa án Nhân dân. Theo đại biểu, nên giữ lại những quyền này. Cùng với đó, Tòa án cần có chương trình đào tạo nâng cao kỹ năng kiểm tra, phân tích, thu thập đánh giá chứng cứ do cơ quan, tổ chức và đương sự cung cấp.