Bệnh lõm ngực là gì?
Theo các bác sĩ, bệnh lõm ngực là tình trạng phát triển bất thường của thành ngực trước, trong đó biểu hiện bằng sự phát triển bất thường của xương ức và xương sườn hướng vào bên trong gây ra lõm lồng ngực.
Đây là loại dị dạng lồng ngực thường gặp, có thể gây chèn ép tim phổi, gây hạn chế vận động thể lực, gầy yếu và ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý của người bệnh, đặc biệt đối với trẻ nhỏ. Bệnh có thể phối hợp với dị dạng, cong vẹo cột sống, thường ở mức độ nhẹ.
Nguyên nhân gây ra bệnh lõm ngực được xác định là bệnh lý bẩm sinh, có tính chất gia đình, anh em ruột hoặc bố con có thể cùng mắc. Bệnh thường xuất hiện từ nhỏ không rõ ràng, tiến triển theo thời gian và thường rõ nhất vào độ tuổi dậy thì khi xương phát triển mạnh nhất.
Hầu hết các bệnh về bệnh lý dị dạng lồng ngực bẩm sinh ở thể trung bình - nhẹ sẽ không có triệu chứng chèn ép tim phổi và không gây ra triệu chứng.
Với mức độ nặng hơn, các triệu chứng thường gặp bao gồm: Đau tức ngực, mệt mỏi thường xuyên, khó thở, tim đập nhanh. Khi hoạt động nhiều, chủ yếu với lứa tuổi trẻ em, căn bệnh gây ra tình trạng hạn chế vận động thể lực, hoạt động nhanh mệt mỏi và khó thở hơn bạn cùng trang lứa.
Người mắc bệnh có thể có các biểu hiện gầy, suy dinh dưỡng, kết hợp với lõm ngực gây ra tình trạng thẩm mỹ kém; ảnh hưởng về mặt tâm lý người bệnh như tự ti, ngại tiếp xúc với bạn bè, thậm chí tự kỷ. Các thể bệnh có thể tiến triển dần theo thời gian và nặng lên gây ra triệu chứng.
Điều trị bệnh lõm ngực và dự phòng, tập luyện sau điều trị
Để điều trị bệnh lõm ngực hay bệnh lý dị dạng lồng ngực bẩm sinh, phương pháp điều trị hiện nay chủ yếu là phẫu thuật.
“Độ tuổi điều trị tốt nhất thường từ 7 đến 15 tuổi, các bệnh nhân lớn tuổi vẫn có thể phẫu thuật nhưng ở mức độ khó khăn hơn”, PGS.TS Nguyễn Hữu Ước, Giám đốc Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho hay.
Theo bác sĩ, chỉ định phẫu thuật gồm một trong các yếu tố: Triệu chứng của chèn ép tim phổi như khó thở, tức ngực, hạn chế vận động thể lực; Yếu tố thẩm mỹ; Yếu tố tâm lý (trẻ tự ti, ngại ngùng tiếp xúc với mọi người); và Chỉ số đánh giá mức độ biến dạng lồng ngực nặng (Chỉ số Haller trên phim cắt lớp vi tính >3,2).
Phương pháp phẫu thuật thường được áp dụng là phẫu thuật NUSS - phẫu thuật ít xâm lấn với nội soi hỗ trợ giúp đặt thanh nâng ngực an toàn và hiệu quả. Bệnh nhân thường ổn định và ra viện vào ngày thứ 5 sau mổ.
Để đạt được hiệu quả tốt trong điều trị cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống, hoạt động thể lực của bệnh nhân; việc dự phòng, theo dõi và tập luyện sau phẫu thuật là rất quan trọng.
Các bác sĩ cho biết, với những bệnh nhân gầy, sau phẫu thuật lõm ngực thường tăng 3-5 kg. Việc sinh hoạt của người bệnh có thể trở lại bình thường sau một tháng, hoạt động thể lực và tập luyện thể thao bắt đầu sau 3-6 tháng sau mổ.
Đối với các hoạt động thể lực mạnh, bác sỹ khuyến cáo nên bắt đầu từ một năm sau phẫu thuật. Thanh nâng ngực của người bệnh được rút sau 2 đến 3 năm tùy theo độ tuổi của bệnh nhân.