![]() Ảnh minh họa (Nguồn skhcn.kontum.gov.vn) |
Các nhà khoa học đã nghiên cứu, thử nghiệm hoạt tính sinh học (kháng khuẩn, kháng oxy hoá và gây độc tế bào) cả các dịch chiết cũng như các hợp chất sạch được tách chiết, phân lập từ hàng chục loài cây thuốc hiện phân bố tự nhiên ở Tây Nguyên. Các nhà khoa học cũng đã nghiên cứu quy trình nhân giống bằng hạt, gây trồng và chăm sóc để bảo tồn và phát triển đối với một số loài cây thuốc quý hiếm, có giá trị cao như Thảo nam sơn, Xáo leo, Xoan nhừ, Tuyết ngọc, Hoàng long, Hoàng thảo nhất điểm hồng, Hoàng thảo dẹt, Bạc lan…
Các nhà khoa học đã tập hợp được 359 bài thuốc sử dụng các loại cây thuốc tại chỗ của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng Tây Nguyên, trong đó số loài cây thuốc được biết nhiều nhất tập trung vào nhóm các bệnh đường tiêu hoá, nhóm các bệnh lý về sức khoẻ sinh sản của phụ nữ. Có tới 320 bào thuốc chỉ sử dụng “độc vị” (chỉ dùng duy nhất 1 loại cây thuốc), 26 bài thuốc sử dụng 2 loài cây thuốc, 15 bài thuốc sử dụng 3 loài cây thuốc...
Tại huyện Buôn Đôn, các nhà khoa học đã thống kê được 238 bài thuốc dân tộc sử dụng 197 loài cây thuốc tại địa phương để chữa bệnh. Trong đó, có 44 bài thuốc trị giun sán và các bệnh liên quan đến đường tiêu hoá, 41 bài thuốc cho phụ nữ sau khi sinh, 29 bài thuốc trị sốt, 20 bài thuốc trị các bệnh liên quan đến thận, đường tiết niệu, xương khớp...
Các nhà khoa học đã kiến nghị các tỉnh Tây Nguyên, các Bộ, ngành chức năng cần có giải pháp tích cực trong việc bảo tồn, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên cây thuốc vùng Tây Nguyên, Trước mắt, cần bảo tồn nguyên trạng các loài cây thuốc đang có ngoài tự nhiên, khoanh vùng quản lý, giám sát chặt chẽ việc thu hái cây thuốc phù hợp với tốc độ tái sinh tự nhiên. Bên cạnh đó, các tỉnh Tây Nguyên cũng sớm nhân giống trồng tại các vườn ươm, vườn nhà, các vùng trồng cây thuốc…nhằm bảo tồn, phát triển các loài cây thuốc vùng Tây Nguyên.