Văn học Việt Nam trong chống Pháp và chống Mỹ

Ba mươi năm - hai cuộc chiến, không tính cuộc chiến ở hai đầu biên giới từ 1979 - 1989, đó là một thời gian dài, rất dài so với bất cứ cuộc chiến nào trên thế giới trong suốt thế kỷ XX. Và, đi cùng với cuộc chiến là sự xuất hiện một nền văn học viết về chiến tranh.

Khi đại bác gầm thì chim họa mi tắt tiếng, lô gích đó xem ra không đúng với dân tộc Việt Nam, bởi trong suốt 30 năm, bất cứ lúc nào cũng xuất hiện những tác phẩm văn học - nghệ thuật thấm nhuần chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” (Hồ Chí Minh). Những tác phẩm của mấy thế hệ người viết, gần như không trừ ai, đã tự nguyện xếp vào đội ngũ những người ra trận, để từ đó làm nảy nở một nền văn học viết về nhân dân chiến đấu, ngay trong khói lửa chiến tranh. Và giá trị của nền văn học đó, trước hết chính là ở sự hiện diện kịp thời này, một sự hiện diện quý giá, nếu không có nó, người viết không thể nào có được căn cứ, chất liệu cần thiết cho việc nêu và trả lời các câu hỏi lớn đặt ra cho dân tộc và cũng là của thời đại: Vì sao dân tộc ta phải thắng? Vì sao ta đến được với Điện Biên Phủ 1954 và Đại thắng mùa xuân 1975?

Hãy thử dừng lại để soi vào cách sống, cách làm việc của số lớn người viết, hoặc số lớn trang viết trong 30 năm đó.

Đó không phải chủ yếu là cái bàn với lọ hoa. Với những chuyến nghỉ ngơi, để tìm sự yên tĩnh trong thiên nhiên. Hoặc sự thay đổi không khí ở một vùng đất khác, trong nước hoặc nước ngoài...

Nếu cái động tác cơ bản của số đông người viết trong 30 năm đó là vừa cầm súng vừa cầm bút, thì cái hoàn cảnh cơ bản để họ hành nghề diễn ra trên đường hành quân, bên bếp lửa rừng, giữa hai loạt bom, giữa hai tầm đại bác, phút im lặng giữa hai trận đánh, và lắm lúc cả trong cái đói cồn cào ở chiến trường… Tôi muốn nói sự ra đời của số lớn tác phẩm ở tình huống đó, không ai không trải qua, trong phần lớn, hoặc toàn bộ đời viết của mình, từ Trần Đăng, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi... đến Nguyễn Thi, Giang Nam, Nguyên Ngọc, Anh Đức, Phan Tứ, Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn… Rồi Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Hồ Phương, Hữu Mai, Nguyễn Trọng Oánh, Xuân Thiều... Cố nhiên, cuộc sống, ngay cả trong chiến đấu, không phải không có những lúc tĩnh lặng, bình yên. Nhưng có phải ở tất cả người viết, chính những giây phút không bình yên của chiến tranh lại dồn chứa biết bao cảm hứng, rung động và sự thôi thúc cho ra đời những quyển, những bài, những trang thật đáng giá. Phải chăng, đó là sự bù đắp, cân bằng trở lại cho tất cả thiệt thòi và hy sinh mà những người viết văn trong chiến tranh phải chịu đựng.

Dẫu sao, không thể nói chiến tranh như là một hoàn cảnh thích hợp, càng không thể nói là thuận lợi cho người viết, khi cái sống và cái chết kề nhau. Nói như Nguyễn Sáng, hãy cứ viết với bất cứ gì có trong tay mình, chứ không thể nói chuyện để dành. “Biết sống biết chết lúc nào mà để dành”.

Công chúng trong chiến tranh cũng là điều không được phép quên. Văn học phải là vũ khí, là nguồn sức mạnh, là điểm tựa cho con người trong mọi khó khăn, gian nguy. Văn học trong 30 năm chiến tranh là văn học viết cho những người mẹ dám tiễn nốt đứa con trai cuối cùng lên đường, cho người vợ đã xa chồng trong 9 năm, lại tiếp tục một cuộc chia ly mới, không hẹn được ngày đoàn tụ. Văn học phải viết về hậu phương sao cho người ở tiền tuyến yên tâm; và viết về tiền tuyến sao cho người ở lại hậu phương luôn vững dạ. Trong hàng vạn người hy sinh, lời nhắn nhủ gửi về phía sau phải là lời của người sống, và khát khao của họ là nhằm vào một chữ đợi. Một mối liên hệ gắn nối như thế có thể “duy tâm”, nhưng rất cần thiết, chính vì có chữ đợi của hậu phương nên sẽ có người sống trở về. Tôn trọng sự thật, người viết không được tô vẽ, không được tuyên truyền một chủ nghĩa lạc quan rẻ giá, nhưng người viết nào cũng có trách nhiệm không được làm nản chí tất cả những ai đang trên đường ra trận, đang giáp mặt với kẻ thù, và cả những ai đang chờ đợi.

***

Thật rõ ràng là ở Việt Nam, trong 30 năm ấy, số phận cá nhân gắn liền với số phận dân tộc như hai mặt của một tờ giấy. Người vợ Việt Nam ở lại miền Nam, sau năm 1954, chung thủy với chồng cũng chính là chung thủy với cách mạng. Kẻ thù biết vậy nên trong những chiến dịch tố cộng khốc liệt, chúng đã dồn sức đánh vào sự chung thủy của người vợ chờ chồng. Chỉ cần chữ “ly khai”, “hạ” được một phụ nữ trong cuộc chiến này chính là đẩy lùi lòng tin, là nới lỏng sự gắn bó giữa nhân dân và cách mạng.

Cuộc chiến thầm lặng mà thật khốc liệt. Và chiến thắng giành được không chỉ riêng của cá nhân.

Hãy đừng nghĩ về chủ nghĩa nhân đạo một cách chung chung như nhiều nơi khác. Yêu cầu một thiếu nữ đang tuổi đôi mươi đã chờ chồng ở một cuộc chiến tranh, lại tiếp tục chờ thêm một cuộc nữa, sao được gọi là nhân đạo? Nhưng nếu không chấp nhận sự chờ đợi này thì cách mạng phải lùi bước. Chính từ nhận thức đơn giản đó mà có hình ảnh người phụ nữ trăn trở “trước tờ giấy trắng” trong thơ Giang Nam đến người phụ nữ “một mình một mâm cơm, ngồi bên nào cũng lệch” trong thơ Hữu Thỉnh.

Nhận thức ấy đã thành kinh nghiệm, thành bản năng trong mỗi người chúng ta suốt nửa thế kỷ.

Trong câu nói của Núp: “Ăn tro tranh khổ, nhưng khổ một đời mình; còn ăn muối Pháp thì còn khổ suốt hết đời con, đời cháu mình nữa”. Trong lời khẳng định: “Đánh Tây sướng bằng tiên chớ cực gì”, và trong cái quyết tâm: “Còn cái lai quần cũng đánh” của chị Út Tịch.

***

Nhân kỷ niệm 30 năm chiến thắng chủ nghĩa phát xít, tôi đọc được chuyện một bà mẹ Nga ở Kuban có 9 người con lần lượt hy sinh. Ngày chiến thắng về làng bà mẹ đã ngã sấp xuống vườn nhà, hai cánh tay già run rẩy vục vào nền đất ẩm và rên lên: “Sao số phận lại đầy đọa tôi đến như vậy”. Và trang bên là hình ảnh ngôi nhà cũ của bà mẹ đã được xây dựng thành bảo tàng của địa phương; trước sân nhà là ba dãy bia mộ của đủ 9 người con.

Nhà bảo tàng và bia mộ cho nhân dân. Cho thời gian.

Ở Việt Nam ta không thiếu những bà mẹ như vậy, đã hiến dâng cho Tổ quốc dăm bảy hoặc tất cả những người con - cả trai và gái, và không ít trường hợp gồm cả thế hệ thứ ba, vì cuộc chiến đấu ở ta có độ dài năm sáu lần hơn.

Có cách biết ơn của người làm bảo tàng. Lại có cách biết ơn của người làm văn, ghi vào chữ nghĩa. Bảo tàng có sức tác động mạnh, nhưng có giới hạn: mỗi người phải đến với nó. Có độ gần, dễ đến. Nhưng có độ xa, rất nhiều người không đến được. Còn văn học, bất chấp khoảng cách không gian, tự nó tìm đến với người đọc, qua cầu ngôn ngữ. Sao cho những mất mát được bù đắp và đừng có sự bạc bẽo hoặc vô ơn nào tìm được nơi ẩn nấp. Để kết thúc cho những trang tản mạn này, tôi thấy vẫn không thể nào tránh được cái ý đã quen thuộc: sự thật thì lớn lao mà trang giấy thì bé quá. Nhưng lại cũng đến lúc, mỗi người viết hôm nay, không còn đường nào khác, phải có cách sao cho trang giấy - mãi mãi chỉ nhỏ bé như vậy, nói được, ôm được, chung đúc được mọi sự thật lớn lao của cuộc đời.

Văn hóa

Nhân dân Sài Gòn - Gia Định kéo về Dinh Độc Lập chào mừng Quân giải phóng
Văn hóa - Thể thao

Nghệ thuật tạo và chớp thời cơ

Nghệ thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975; thay vì 2 năm như kế hoạch đã đề ra, chúng ta chỉ mất 55 ngày đêm thu non sông về một mối.

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn
Văn hóa - Thể thao

Ký họa sống động những ngày tiến về Sài Gòn

Chứng kiến sự gian khổ của bộ đội ta trong những ngày kháng chiến và cả niềm hân hoan của ngày thống nhất, ông Trần Mạnh Tuấn, một họa sĩ không chuyên, nguyên phóng viên báo Pháp luật Việt Nam, đã thực hiện các bức ký họa bằng bút sắt sinh động ghi lại lịch sử không thể nào quên của dân tộc.

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc
Văn hóa

“Cho con là người Việt Nam” - Khi âm nhạc cất lên niềm tự hào dân tộc

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30.4.1975 - 30.4.2025) và 80 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2.9.1945 - 2.9.2025), MV "Cho con là người Việt Nam" của Tùng Dương chính thức được ra mắt như một lời tri ân sâu sắc tới lịch sử hào hùng của dân tộc và gửi gắm khát vọng vươn lên của thế hệ trẻ Việt Nam.

Để lá cờ Tổ quốc không ngừng bay ở vĩ tuyến 17
Văn hóa

Để cờ Tổ quốc tung bay ở vĩ tuyến 17

Trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh chống Mỹ, hình ảnh lá cờ Tổ quốc ở vĩ tuyến 17 là niềm tin, hy vọng của Nhân dân về một ngày đất nước thống nhất. Và để bảo vệ lá cờ không ngừng bay giữa mưa bom, bão đạn, nhiều chiến sĩ đã cống hiến thanh xuân của mình.

50 năm văn học, nghệ thuật đồng hành với đất nước
Văn hóa - Thể thao

50 năm văn học, nghệ thuật đồng hành với đất nước

Có lẽ trong mọi điều sâu thẳm và bền bỉ nhất mà một quốc gia có thể gìn giữ suốt hành trình phát triển là văn học, nghệ thuật. Nhìn lại 50 năm đất nước thống nhất, văn học nghệ thuật đã không chỉ song hành, mà còn là lực đẩy tinh thần đặc biệt, nâng bước dân tộc qua những năm tháng đầy biến động.

Kết nối ký ức hào hùng
Văn hóa - Thể thao

Kết nối ký ức hào hùng

Nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, những thước phim truyện khắc họa cuộc kháng chiến cứu nước của quân và dân ta vẫn vẹn nguyên giá trị lịch sử và nghệ thuật, là di sản tinh thần vô giá của dân tộc. Làm tốt công tác bảo tồn, khơi dậy sức sống mạnh mẽ cho di sản này sẽ góp phần lan tỏa những câu chuyện hào hùng đến các thế hệ sau.

Nhà hát Tuổi trẻ hợp tác quốc tế phát triển nhạc kịch
Văn hóa

Nhà hát Tuổi trẻ hợp tác quốc tế phát triển nhạc kịch

Mới đây, tại Nhà hát Nghệ thuật thành phố Guri - Hàn Quốc đã diễn ra buổi diễn đọc kịch bản vở nhạc kịch "Giấc mơ của em" (My dream), kết quả giai đoạn đầu tiên của dự án hợp tác nghệ thuật giữa Nhà hát Tuổi trẻ và Nhà hát Sangsangmaru kéo dài trong hai năm 2025 - 2026.