Phát biểu tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh nêu rõ, tại Phiên họp này, Ủy ban Xã hội sẽ thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2022; tham gia thẩm tra Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022 và kết quả thực hiện những tháng đầu năm 2023; cho ý kiến về kết quả giám sát chuyên đề của Quốc hội “Việc huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid -19; việc thực hiện chính sách, pháp luật về y tế cơ sở, y tế dự phòng”.
Ủy ban cũng cho ý kiến về báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2022 và những tháng đầu năm 2023 và dự kiến đến hết năm 2023; quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021 thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội đề nghị các đại biểu cho ý kiến bằng văn bản đối với các dự thảo báo cáo tham gia thẩm tra đối với các đề xuất xây dựng dự án Luật dự kiến đưa vào Chương trình xây dựng Luật, pháp lệnh năm 2024 thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách, tham gia thẩm tra đối với một số dự án Luật trình tại Kỳ họp thứ Năm như dự án Luật Đất đai (sửa đổi), dự án Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi), dự án Luật Nhà ở (sửa đổi), dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), dự án Luật Viễn thông (sửa đổi), dự án Luật Quản lý, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự, dự án Luật Căn cước công dân (sửa đổi), dự án Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Công an nhân dân, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam. Tại phiên họp, báo cáo kết quả thực hiện các mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2022, Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Nguyễn Thị Hà cho biết, có 9/20 chỉ tiêu đã đạt so với mục tiêu của Chiến lược đến năm 2025 và tiếp tục duy trì, thực hiện tốt hơn. Có 7/20 chỉ tiêu có kết quả tiến bộ hơn so với năm 2021 và phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2025. Tỉ lệ các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ đạt 60% vào năm 2025 và 75% vào năm 2030. Tỷ lệ lao động nữ làm công hưởng lương trên tổng số lao động nữ có việc làm đạt 50% vào năm 2025 và khoảng 60% vào năm 2030.
Tỷ trọng lao động nữ làm việc trong khu vực nông nghiệp trong tổng số lao động nữ có việc làm là 28,45%, giảm 0,18% so với năm 2021 là 28,63%, (chỉ tiêu đề ra dưới 30% vào năm 2025). Chỉ tiêu tỷ lệ nữ giám đốc/chủ doanh nghiệp, hợp tác xã đạt 28,2% (từ năm 2021), đạt mục tiêu của Chiến lược đến năm 2025 là ít nhất 27%.
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cũng cho biết, tỷ lệ người bị bạo lực gia đình, bạo lực trên cơ sở giới được phát hiện và được tiếp cận ít nhất một trong các dịch vụ hỗ trợ cơ bản là 97,07%, vượt chỉ tiêu đề ra là 80% vào năm 2025 và 90% vào năm 2030. Duy trì và đạt 100% tỷ lệ số nạn nhân bị mua bán trở về được phát hiện có nhu cầu hỗ trợ được hưởng các dịch vụ hỗ trợ và tái hòa nhập cộng đồng.
Theo Ủy viên Thường trực Ủy ban Xã hội Nguyễn Thanh Cầm, năm 2022, mặc dù vừa trải qua diễn biến phức tạp, khó lường của đại dịch Covid-19 và phải thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi, phát triển kinh tế nhưng Chính phủ đã quan tâm chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới và Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030.
So với năm 2021, kết quả thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu đã có những tiến triển. Chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam năm 2022 tăng 4 bậc so với năm 2021 (từ vị trí thứ 87/146 quốc gia lên vị trí thứ 83/146 quốc gia), trong đó các chỉ số về trao quyền cho phụ nữ, lĩnh vực sức khỏe và giáo dục có những bước tiến bộ rõ rệt. Khoảng cách giới trong các lĩnh vực nhìn chung tiếp tục được rút ngắn và được quốc tế ghi nhận.
Tuy nhiên, đại biểu đặc biệt lưu ý những tác động của dịch bệnh Covid - 19 tới phụ nữ và các đối tượng yếu thế trong xã hội, nhất là những tác động về thể chất, tinh thần, làm gia tăng khoảng cách bình đẳng giới, ảnh hưởng đến việc thực hiện Chiến lược. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới còn mỏng; công chức chuyên trách công tác bình đẳng giới cơ bản là phụ nữ (chiếm 71,6%) và thường xuyên luân chuyển, biến động hàng năm; kỹ năng, kiến thức về bình đẳng giới còn hạn chế.
Tại Phiên họp, các đại biểu cũng phản ánh tình trạng nhận thức và sự quan tâm của một số cán bộ lãnh đạo về bình đẳng giới còn hạn chế; định kiến giới, bạo lực, xâm hại, mua bán phụ nữ và trẻ em gái vẫn diễn biến phức tạp, tăng về số lượng... tiếp tục là những thách thức, khó khăn trong công tác bình đẳng giới thời gian tới. Việc thu thập các chỉ tiêu thống kê phát triển giới vẫn còn hạn chế nên chưa đánh giá được mức độ thực hiện Chiến lược đến năm 2025, chưa thực hiện được nhiệm vụ, giải pháp của Chiến lược là xây dựng cơ sở dữ liệu thống kê về giới của quốc gia.
Các đại biểu cũng đề nghị sớm có giải pháp thiết thực bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ trong cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương, cán bộ làm công tác bình đẳng giới chuyên trách. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới; hằng năm có kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thực hiện tại một số bộ, ngành, địa phương, tập trung vào các bộ, ngành, địa phương chưa thực hiện tốt chính sách, pháp luật về bình đẳng giới. Quan tâm bố trí kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới và các nội dung về bình đẳng giới trong các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội.