
Pha, một nông dân nghèo bị Trương Thi – người hàng xóm không tốt bỏ bã rượu vào ruộng rồi báo Tây đoan về bắt. Nhưng Thi bỏ lầm vào ruộng Nghị Lại, một địa chủ lớn trong vùng. Pha thoát nạn. Nghị Lại xúi Trương Thi kiện Pha, rồi lại xúi Pha kiện Trương Thi, hứa cho cả hai người vay tiền lo kiện và nói lót với quan cho cả hai! Pha lên huyện hầu kiện, bị lính lệ hạch sách, đánh đấm, cướp giật, lại bị quan ra lệnh tống giam vì không mang tiền “lễ”. Đến khi vợ đem tiền đến, anh mới được tha về. Nghị Lại đến dụ dỗ, Pha lại phải vay thêm lão hai chục để “tạ quan”! Bá Tân, người anh vợ có chữ nghĩa của Pha, bàn với Pha tìm cách trả kỳ được món nợ của Nghị Lại. Nhưng lão đã có chủ ý, nhất định chưa nhận. Vụ thuế đến, lính cơ về làng, tróc nã, bắt trói, cùm kẹp; Quan huyện về đốc thuế, đem lính vào từng nhà, cướp trâu, vơ vét đồ đạc, tiền bạc...! Sau vụ thuế, nhiều gia đình nông dân khánh kiệt, trong khi Nghị Lại và bọn kỳ hào kiếm hàng trăm. Vợ chồng Pha phải đến làm thuê cho Nghị Lại, vất vả quần quật mà cơm độn cà thiu không đủ no. Chị Pha về ốm nặng, Pha lại phải đến vay thóc Nghị Lại để ăn. Vợ anh vẫn ốm, không có tiền mua thuốc, chỉ uống mấy thứ lá linh tinh, rồi lễ bái, chạy mồ... Anh phải đến phục dịch nhà Nghị Lại, rồi bị đòn, bị đuổi oan ức. Nước sông lên to, Pha và hàng trăm nông dân phải đi hộ đê, trong khi vợ con nhịn đói. Rồi nạn dịch tả. Chị Pha chỉ vì không chịu tiêm chủng đã chết về dịch. Đã thế, Pha còn bị “làng” bắt vạ vì cho rằng anh “hỗn xược với thần” để làng bị dịch! Đứa con của anh cũng chết nốt, chỉ còn mình anh trơ trọi, túng đói.
Đau buồn, uất ức, Pha càng thấm thía tình trạng bất công ở đời. Hòa, anh ruột Pha, làm thợ ở xa về làng thăm em. Hòa giải thích cho Pha về nguyên nhân nỗi khổ và bảo anh: Dân cày phải hợp sức nhau lại đạp đổ “cái chế độ thối mục ở hương thôn” hiện nay thì mới sống được. Giữa lúc đó, Nghị Lại gọi Pha đến đòi nợ. Tính theo lệ vay nhà lão thì cả gốc lẫn lãi, Pha phải gán tám sào ruộng lúa đang chín của anh. Trước dã tâm cướp ruộng, cướp lúa của Nghị Lại, Dự, một người anh em họ, bàn với Pha và Trương Thi, San – là những người cũng sắp bị Nghị Lại cướp ruộng vì không trả được nợ – họp nhau đối phó. Họ quyết định cùng hợp sức gặt lúa cho nhau, không để lão cướp lúa. Họ đã gặt cho Thi và San trót lọt. Nhưng hôm sau, Nghị Lại cho lính kèm thợ gặt đến gặt cướp lúa trên ruộng của Pha, khi anh chạy đến, Nghị Lại trỏ lính quây bắt. Vớ được chiếc đòn càn, anh phang mạnh vào đầu lão, kêu to: “Đồ ăn cướp!”. Bọn lính trói gô Pha lại, khênh anh đi...
Bước đường cùng phản ánh cuộc sống nông thôn đương thời trên một phạm vi tương đối rộng với nhiều tài liệu phong phú, chân thực về tình cảnh khổ cực của người nông dân bị áp bức bóc lột, trong đó, nổi bật nhất là nạn địa chủ phong kiến. Nhân vật Nghị Lại là một điển hình khá toàn diện về giai cấp địa chủ thối nát, phản động. Tác giả tập trung vạch trần dục vọng cướp đoạt ruộng đất nông dân của bọn địa chủ, chủ yếu bằng thủ đoạn cho vay cắt cổ. Trong khi miêu tả quá trình bị đẩy tới “bước đường cùng” không cưỡng được của người nông dân Việt Nam trước cách mạng, tác giả đã cố gắng xây dựng một nhân vật tích cực, có quá trình phát triển về ý thức giác ngộ và tinh thần đấu tranh chống kẻ thù giai cấp. Nhận thức tiến bộ đó của Nguyễn Công Hoan là nhờ ảnh hưởng của phong trào Mặt trận dân chủ do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nhưng nhận thức của tác giả khi đó chưa thật đầy đủ, chính xác, nên Bước đường cùng vẫn bộc lộ những mâu thuẫn, lúng túng trong việc tìm nguồn gốc nỗi khổ của nông dân, trong việc thể hiện con đường đấu tranh của họ. Mặt khác, trong khi miêu tả chân thực cảm động nỗi khổ của người nông dân, tác giả chưa phải đã hiểu biết sâu sắc, đầy đủ đời sống tinh thần phong phú và phẩm chất đẹp đẽ của họ.
Bước đường cùng có nhiều trang đặc sắc, sinh động, song chưa có được sức truyền cảm nghệ thuật tương xứng với chủ đề lớn, tiến bộ của nó. Tuy nhiên, ý nghĩa tiến bộ của tác phẩm từng được báo chí cách mạng khi đó khẳng định, biểu dương. Một số Hội ái hữu công nhân đã đưa tác phẩm lên sân khấu. Chính quyền thực dân Pháp vội vã cấm lưu hành lần lượt trên toàn cõi Đông Dương.
Nguyễn Hoành Khung