Gần như hơi thở
101 bộ phim Việt Nam hay nhất là dự án điện ảnh tâm huyết của nhà báo Lê Hồng Lâm sau hơn 20 năm theo dõi, viết về điện ảnh và 3 năm chuyên tâm hoàn thành cuốn sách. 101 bộ phim trải từ năm 1953 - 2018, phác họa bức tranh toàn cảnh, cho thấy chân dung con người Việt Nam hiện đại. Nhiều người ví nó như “biên niên sử” Việt Nam bằng điện ảnh, có những biến động và bình lặng, những chia cắt và hòa hợp, vết thương và hàn gắn, khổ đau và hạnh phúc, tan vỡ và hồi sinh, nước mắt và nụ cười, ra đi và trở về… Ở đó, có chân dung của những phụ nữ, những người đàn ông, những đứa trẻ với ánh mắt sầu muộn và xa xăm nhưng vẫn ánh lên niềm hy vọng. Chất “đời” ấy khiến cho các phim đáng xem và được ngóng chờ.
Chung một dòng sông, Vĩ Tuyến 17 ngày và đêm khởi động cho điện ảnh cách mạng Việt Nam. Sau đó là một loạt tác phẩm xuất sắc như: Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn, bộ ba Cánh đồng hoang, Mùa gió chướng, Mùa nước nổi về tinh thần bất khuất của người dân Nam bộ chống Mỹ. Những bộ phim khắc sâu các số phận thời hậu chiến như: Thương nhớ đồng quê, Đời cát, Sống trong sợ hãi, Chuyện của Pao… Những phim mang đến mỹ cảm điện ảnh khác lạ của các đạo diễn Việt kiều trở về nước làm phim như: Mùi đu đủ xanh, Xích lô, Mùa len trâu... Các tác phẩm thu hút chục triệu người xem, tạo nên đời sống phim ảnh sôi động. Thập niên 1980 - 1990, phim chiếu ở các rạp chiếu bóng lưu động đồng thời ở ba, bốn xã, một tập dài 1 tiếng rưỡi nhưng buổi chiếu có thể đến vài tiếng vì những lần ngắt quãng thay băng. Ai cũng háo hức, say mê các tác phẩm kể về những anh hùng và sức sống kỳ diệu của con người, từng chuyển động nhỏ được đề cập trong phim đều gần gũi như hơi thở đời sống.
Trong buổi giao lưu ra mắt sách tại Hà Nội, nhà phê bình Lê Hồng Lâm cho biết, dự án 101 bộ phim Việt Nam hay nhất anh muốn dành để tôn vinh những tài năng cũng như những bộ phim của điện ảnh Việt Nam đang dần bị lãng quên. Điểm mặt chỉ danh các tác phẩm, so sánh đối chiếu với cảm xúc khi xem hàng trăm bộ phim kinh điển của thế giới, anh nhận ra điện ảnh Việt Nam vẫn xúc động hơn cả. “Bởi ở đó, tôi được sống với tâm hồn người Việt Nam, được tắm trong ngôn ngữ tiếng Việt thuần nhị, được chiêm ngưỡng cảnh đẹp Việt Nam qua các vùng miền và được chứng kiến những cảnh đời cay đắng, nhọc nhằn, gian khó nhưng vẫn tràn đầy sức sống của người Việt qua các thời kỳ khác nhau”.
![]() |
“Con tàu” kỳ vọng
Trong số hàng trăm bộ phim tạo được tên tuổi, nhiều phim đã từng hay nhưng bây giờ không còn hay nữa vì tính tuyên truyền quá lộ mặc dù vẫn có giá trị nhất định về mặt lịch sử. Có nhiều phim hay và giờ xem lại vẫn hay. Một số phim khác gần đây chủ yếu là dòng phim giải trí, được thực hiện chỉn chu và mang một vài thông điệp tích cực nào đó về cuộc sống và con người đương đại. Các đường dẫn này tạo nên sơ đồ hệ thống để nhìn nhận, đánh giá Việt Nam ở vị trí nào trên bản đồ điện ảnh thế giới. |
Điện ảnh Việt Nam tạm tính từ Kiếp hoa (1953) đến Song lang ra mắt tháng 8.2018, có khoảng 1.000 phim gồm các thể loại thời chiến tranh, hậu chiến, thời kỳ “mì ăn liền”. Theo nhà phê bình Lê Hồng Lâm, bên cạnh những phim hay, không phủ nhận có nhiều phim dở, được làm quá ẩu, ngây ngô, ước lệ. Đặc biệt, trong thời kỳ phim “mì ăn liền” đầu thập niên 1990 và những bộ phim “cúng cụ” của điện ảnh nhà nước tốn cả chục tỷ đồng nhưng bán không được vé, điện ảnh Việt Nam dần thoái trào, khán giả mất lòng tin. Vàng thau lẫn lộn, những bộ phim “đi cùng năm tháng” của điện ảnh Việt Nam cũng phải chịu chung tiếng oan và nhiều thành kiến không đáng có.
Theo NSND Như Quỳnh, gương mặt quen thuộc trên màn ảnh 50 năm qua bày tỏ, phim Việt xưa thường hướng đến sự tự nhiên, giản dị, diễn viên hóa thân vào nhân vật dường như không phải diễn mà thấy như là chính mình. Đời sống bây giờ phức tạp và dữ dội hơn nhiều, ngôn ngữ điện ảnh cũng phải đổi khác. Biến động, đổi thay và phát triển là một tiến trình có vàng son, có thoái trào, có lưu tồn, biến mất… mang lại cái nhìn về nghệ thuật qua mỗi giai đoạn khác nhau nhưng sau cùng và quan trọng nhất là làm sao toát lên giá trị nhân văn.
Không phủ nhận đóng góp tích cực của dòng phim thị trường nhưng điện ảnh nước nhà thực tế đang tràn ngập “sạn” là những phim không bám sát đời sống, không mang bóng dáng Việt Nam. Đạo diễn, NSND Phạm Nhuệ Giang dẫn chứng đề tài về phụ nữ Việt Nam thời hậu chiến thôi thúc ngôn ngữ điện ảnh kể về những số phận vừa đau khổ, vừa chịu đựng, còn hế hệ làm phim bây giờ có nhiệm vụ cất tiếng nói của ngày nay. Có điều, tiếng nói ấy đôi khi đến nỗi người ta không còn nhận ra tính Việt Nam nữa, những tiếp cận hời hợt hướng đến vui vẻ, bước ra khỏi rạp khán giả sẽ quên ngay, còn hiện thực xã hội thì sai hoàn toàn.
Nhưng khán giả vẫn có quyền kỳ vọng vào điện ảnh Việt Nam. Nhiều phim vượt thoát theo hướng thể nghiệm nghệ thuật, dành cho những đạo diễn dám “lội ngược dòng”, không tuân theo quy luật chung. Đập cánh giữa không trung, Đảo của dân ngụ cư, Nhắm mắt thấy mùa hè, Song lang… là những tiếng nói đương đại đầy cá tính, được cả giới hàn lâm và công chúng đón nhận. Trong dòng chảy điện ảnh thế giới, điện ảnh Việt chỉ là một nhánh rất nhỏ nhưng mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ luôn có tác phẩm khiến ta tin rằng con tàu điện ảnh Việt sẽ còn đi xa.