LTS: Mới đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có tờ trình Chính phủ về việc thống nhất giao cho Bộ này quản lý hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm cả bậc trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Đề xuất này đã “xới” lại cuộc tranh luận “nóng bỏng” về việc “giáo dục nghề nghiệp nên thuộc cơ quan nào quản lý?” khi QH sửa đổi, bổ sung Luật Dạy nghề vài năm trước. Báo Đại biểu Nhân dân nhận được bài viết của nguyên Chủ nhiệm VPQH Bùi Ngọc Thanh nêu ý kiến về vấn đề này. Để rộng đường dư luận, tòa soạn trân trọng giới thiệu cùng độc giả và mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi! |
Hành trình 30 năm
Ngày 9.10.1969 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 200/CP thành lập Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ thuật thuộc Bộ Lao động. Ngày 21.6.1978, Chính phủ ra Quyết định số 151-CP đổi tên Tổng cục Đào tạo công nhân kỹ thuật thành Tổng cục Dạy nghề và là cơ quan thuộc Chính phủ (từ Dạy nghề do chính Hội đồng Bộ trưởng xác định để phân biệt một cách tương đối giữa đào tạo lao động chân tay với đào tạo lao động trí óc). Nhiệm kỳ Chính phủ 1981 - 1987 (lúc này là Hội đồng Bộ trưởng) có tới 71 cơ quan, trong đó bộ, cơ quan ngang bộ là 34 và 37 cơ quan thuộc Chính phủ. Vấn đề tinh giản biên chế và giảm đầu mối quản lý là một yêu cầu cấp bách. Ngày 16.2.1987, Chính phủ sáp nhập Tổng cục Dạy nghề vào Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp thành Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề; giúp Bộ quản lý nhà nước về dạy nghề là Vụ Dạy nghề. Đến ngày 31.3.1990, Hội đồng Nhà nước lại ra Nghị quyết số 244NQ/HĐNN8 thì Bộ GD - ĐT được thành lập trên cơ sở Bộ Giáo dục; Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề để thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo.
![]() Học viên tại trường dạy nghề |
Khi dạy nghề còn là một Tổng cục (thuộc Bộ Lao động) thì phát triển rất khá theo hướng ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực cho sản xuất - kinh doanh cả về số lượng và chất lượng. Nhưng từ khi nó bị “hòa tan” vào “một rừng” các công việc (từ quản lý mẫu giáo, vỡ lòng đến các cấp học phổ thông, cao đẳng, đại học và đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ) thì dạy nghề bị teo tóp, lịm dần. Về quản lý, từ một Tổng cục xuống một Vụ; từ một Vụ xuống còn nửa vụ, rồi xuống tiếp còn một Phòng. Theo các tài liệu xây dựng Luật Dạy nghề năm 2006 thì năm 1969 khi mới thành lập Tổng cục, sang năm 1970 đã có 190 trường đào tạo nghề, với quy mô 48.000 học sinh; đến năm 1987 số trường đào tạo nghề đã lên tới 366, quy mô đào tạo năm 1980 đã là 176.000 học sinh. Đến năm 1990 (khi đã chuyển sang Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Dạy nghề), số trường đào tạo nghề tụt xuống còn 232 trường (giảm 134 trường), quy mô đào tạo ngay năm 1987 chỉ còn 71.000 học sinh. Đến đầu năm 1998, chỉ còn 129 trường (giảm tiếp 103 trường nữa)...
Bước vào thời kỳ CHH, HĐH, nhu cầu nhân lực được đào tạo rất bức xúc; trước tình hình mai một nghiêm trọng của công tác dạy nghề, Chính phủ đã quyết định tái lập Tổng cục Dạy nghề thuộc Bộ LĐ, TB và XH bằng Nghị định số 33/1998/NĐ-CP ngày 23.5.1998. Như vậy, từ khi được thành lập năm 1969 đến năm 1998, Tổng cục Dạy nghề đã “chu du một vòng” 30 năm với những tên tuổi khác nhau, “thử nghiệm” cơ quan quản lý khác nhau rồi trở về đúng nơi nó được sinh ra và lớn lên.
Tính đúng đắn của việc tái lập Tổng cục Dạy nghề
Chính phủ tái lập Tổng cục Dạy nghề, giao cho Bộ LĐ, TB - XH quản lý nhà nước là hoàn toàn chính xác. Một mặt như thực tế đã nêu, 30 năm “chu du” với 5 đầu mối quản lý như những “phép thử” đã cho thấy, thuận lợi, khó khăn và sự phát triển thăng trầm ở từng giai đoạn trực thuộc từng đầu mối. Nhưng quan trọng và quyết định hơn cả là do đặc điểm riêng có của dạy nghề. Dạy nghề không nặng đào tạo hàn lâm mà đào tạo cho người lao động có kỹ năng nghề để trực tiếp sản xuất. Nội dung đào tạo chủ yếu là kỹ năng thực hành (chiếm từ 65 đến 90% thời lượng đào tạo). Đào tạo theo yêu cầu sản xuất, yêu cầu thị trường nên đa dạng về trình độ đào tạo (ngắn ngày, dài hạn, chuyên sâu, trình độ cao...). Dạy nghề không chỉ trong nhà trường mà còn được truyền nghề tại gia đình, tại làng nghề, phố nghề, tại cơ sở sản xuất, trên đồng ruộng; dạy nghề gắn với sản xuất, tạo việc làm...
Do đó, quản lý nhà nước về dạy nghề trong điều kiện như vậy thích hợp nhất vẫn là ngành lao động. Vì vậy, phân công của Chính phủ tại Nghị định số 33/1998/NĐ-CP là đúng đắn, cần tiếp tục được ổn định để phát triển sự nghiệp quan trọng - dạy nghề trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
Theo hồ sơ của Chính phủ trình QH Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề và Báo cáo số 1129/BC-UBVHGDTTNNĐ ngày 12.5.2014 của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, TN, TN và NĐ (trình QH tại Kỳ họp thứ 7, tháng 5.2014) cho thấy: Về mạng lưới các cơ sở dạy nghề, từ năm 2001 - 2006, số cơ sở dạy nghề lần lượt qua các năm là 306, 396, 469, 565, 640 và 861 cơ sở. Từ năm 2007 đến năm 2013, theo Báo cáo số 1129/BC-UBVHGDTTNNĐ nói trên thì số cơ sở dạy nghề lần lượt là 898, 990, 1.164, 1.231, 1.292 và 1.337 cơ sở. Năm 2013 so với năm 2001 tăng gấp hơn 4,3 lần, so với năm 2006 (năm Luật có hiệu lực) tăng gần 1,5 lần. Quy mô tuyển sinh dạy nghề cũng liên tục phát triển, cũng theo các nguồn tài liệu trên thì từ năm 2001 đến năm 2006, lần lượt các năm như sau: 887.300 học sinh, 1.105.000, 1.074.100, 1.153.000, 1.207.000 và 1.340.000 học sinh. Từ năm 2007 đến năm 2013 lần lượt là: 1.436.500, 1.538.000, 1.707.000, 1.745.527, 1.773.491, 1.494.379 và 1.732.016 học sinh, sinh viên (từ năm 2006 trở về trước chưa có Cao đẳng nghề).
Từ những cứ liệu trên mà trong báo cáo giám sát của mình, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, TN, TN và NĐ của QH đã kết luận: Hoạt động dạy nghề từ khi có Luật Dạy nghề đã từng bước phục hồi và có sự phát triển mạnh mẽ. Hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ đào tạo (sơ cấp nghề, trung cấp nghề, cao đẳng nghề) được hình thành. Mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển rộng khắp trên cả nước, đa dạng về hình thức sở hữu và loại hình đào tạo. Quy mô tuyển sinh tăng nhanh, góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Nguồn lực đầu tư cho dạy nghề được đa dạng hóa. Các điều kiện bảo đảm chất lượng dạy nghề từng bước được cải thiện và nâng cao. Chất lượng, hiệu quả dạy nghề có chuyển biến tích cực, đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ trực tiếp trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và phát triển KT - XH của đất nước.
Do đó, việc ổn định cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề ở Bộ LĐ, TB - XH vẫn là đúng đắn và hợp lý nhất.
Việc phân chia một cách tương đối công tác đào tạo đã được hình thành từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đào tạo người làm việc chủ yếu bằng trí óc thì do các trường đại học, trung học chuyên nghiệp thuộc Bộ Giáo dục quản lý (khi ấy chưa có Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp); đào tạo người làm việc chủ yếu bằng chân tay, cơ bắp thì do các trường công nhân kỹ thuật và các xí nghiệp, nhà máy thực hiện thuộc sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động (nơi cung cấp nhân công theo chỉ tiêu kế hoạch nhà nước). Bộ Giáo dục không thể quản lý các trường công nhân kỹ thuật, càng không thể quản lý các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã. Xét cho cùng, việc phân công từ trong kháng chiến chống Pháp đến nay vẫn còn tính hợp lý. |