Yếu tố chủ quan quyết định
- Lâu nay, khi đánh giá thời cơ để quân và dân ta thực hiện thành công Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhiều người cho rằng đó là việc cùng lúc chúng ta có được những điều kiện chín muồi khách quan và chủ quan cho một cuộc tổng khởi nghĩa. Quan điểm của ông như thế nào?
- Trong quá trình xác định thời cơ phát động toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phân tích một cách khoa học và đánh giá cao mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương với cuộc chiến tranh của các nước Đồng minh chống phát xít; luôn coi trọng cả yếu tố khách quan lẫn chủ quan, song đặc biệt nhấn mạnh yếu tố chủ quan có ý nghĩa quyết định nhất. Trong Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12.3.1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã khẳng định: “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc Tổng khởi nghĩa” và dự kiến “nếu tình thế chuyển biến thuận lợi thì dù quân Đồng minh chưa đổ bộ, cuộc tổng khởi nghĩa của ta vẫn có thể bùng nổ và thắng lợi”.
Đánh giá tình hình cách mạng Đông Dương lúc này, Đảng ta cho rằng “những điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi; những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi”. Trên cơ sở đó, Đảng đã phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp với những hình thức đấu tranh phong phú và cao hơn giai đoạn trước. Cùng với đó là đẩy mạnh phong trào du kích chiến tranh. Có thể nói, với “Chỉ thị Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, cách mạng Việt Nam đã bước sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Tầm nhìn chiến lược nhạy bén
- Điều gì cho thấy tầm nhìn chiến lược của lãnh tụ Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng trong Cách mạng tháng Tám năm 1945?
- Giữa lúc cuộc khởi nghĩa của chúng ta đang ở khí thế sục sôi, phát xít Nhật tại châu Á bị đẩy lùi dần về thế phòng ngự chiến lược. Hội nghị Potsdam ra tuyên bố chung đòi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện và quyết định mở cuộc tiến công cuối cùng vào các đạo quân của Nhật Bản cho tới khi Nhật Bản chấm dứt mọi kháng cự.
Ngay sau khi Nhật Bản chấp nhận bản tuyên bố của Hội nghị Potsdam, với tầm nhìn chiến lược nhạy bén, trên cơ sở phân tích một cách khoa học về thời cơ, lãnh tụ Hồ Chí Minh cùng với Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã phát lệnh Tổng khởi nghĩa trên phạm vi cả nước. Đêm 13.8.1945, từ Đại bản doanh trong ATK Việt Bắc, bản Quân lệnh số 1 đã được phát đi.
Tại Đông Dương, tuyên bố đó đã không được truyền đạt kịp thời tới Tư lệnh các đạo quân Nhật Bản, trong đó có Tư lệnh đạo quân Phương Nam. Ngày 19.8, trong khi Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông và làm chủ Mãn Châu, thì tại Hà Nội, cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi, chính quyền về tay nhân dân. Như một phản ứng dây chuyền, các địa phương trong cả nước lần lượt khởi nghĩa giành chính quyền thành công trong những ngày cuối tháng 8.1945.
Ngày 2.9.1945, khi mà trên chiến hạm Missouri đang bỏ neo trong vịnh Tokyo, Nhật Bản chính thức ký các văn kiện chấp nhận đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, thì tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Ngày 19.8.1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ |
Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Chớp “thời cơ vàng”
- Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra trong thời điểm chúng ta đã có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, đón tiếp quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của các lực lượng Đồng minh chống phát xít. Điều đó khẳng định rõ hơn quan điểm trên đây của ông về bài học nắm vững thời cơ cách mạng?
- Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam nổ ra và thành công trong bối cảnh quân đội Nhật Bản chưa đầu hàng các lực lượng Đồng minh chống phát xít và đạo quân Phương Nam ở Đông Dương vẫn còn đang sung sức. Điều này càng cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt, nhạy bén và kịp thời của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Có thể nói, thời cơ Tổng khởi nghĩa chỉ xuất hiện trong một khoảng thời gian rất ngắn, hai tuần lễ, nhưng đó là thời cơ vàng mà Đảng ta đã chớp lấy lãnh đạo toàn dân dốc toàn lực tung ra đòn quyết định giành chính quyền trong cả nước. Tổng khởi nghĩa nổ ra vào thời điểm khi mà ở trong nước, cao trào kháng Nhật, cứu nước đã phát triển lên đến đỉnh cao, quân đội Nhật Bản ở Đông Dương mất nhuệ khí, không còn chỗ dựa, nhiều đơn vị quân Nhật đã bị “trung lập hóa”; quân đội Anh, Pháp, Tưởng chưa kịp kéo vào. Với chính quyền mới giành được, nhân dân Việt Nam có đầy đủ cơ sở chính trị, pháp lý, đứng trên cương vị “chủ nhân” ngẩng cao đầu tiếp quân đội các nước vào giải giáp quân Nhật theo sự phân công của các lực lượng Đồng minh chống phát xít. Một tuần sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập (9.9), phái đoàn tiền trạm của Trung Hoa dân quốc đặt chân tới Hà Nội; ngày 28.9.1945, lễ đầu hàng của quân đội Nhật Bản mới chính thức diễn ra ở Hà Nội.
Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 nổ ra đúng lúc “tình hình đã hết sức khủng hoảng, đội tiên phong đã sẵn sàng chiến đấu đến cùng, hậu bị quân đã sẵn sàng ủng hộ đội tiên phong và hàng ngũ quân địch đã rối loạn, hoang mang đến cực điểm”. Quân Nhật mặc dù đang sung sức, trang bị còn mạnh nhưng nhuệ khí đã giảm sút, đặc biệt là bộ máy công cụ bạo lực phản động mà chúng sử dụng để chống lại cách mạng gần như đã bị vô hiệu hóa. Theo tôi, đây chính là thời cơ nghìn năm có một để phát động cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Không phải ngẫu nhiên mà lãnh tụ Hồ Chí Minh mặc dù đang ốm nặng tại ATK Việt Bắc, nhưng cố gượng dậy căn dặn đồng chí Võ Nguyên Giáp: Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 cho chúng ta nhiều bài học có giá trị, trong đó có bài học về nắm bắt thời cơ. Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), từng xuất hiện một số thời cơ để có thể tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa (như thời điểm cuối 1963 - đầu 1964, Mậu Thân 1968). Tuy nhiên, tại các thời điểm đó do thời cơ chưa thật sự chín muồi nên chưa thể có tổng khởi nghĩa mang tính quyết định giống như trong Cách mạng tháng Tám 1945. Đến năm 1975 thì khác, tình thế và tương quan lực lượng trên chiến trường đã có sự thay đổi căn bản có lợi cho cách mạng, thời cơ đã thực sự chín muồi, Đảng ta đã nhanh chóng chớp lấy mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu giang sơn về một mối.
75 năm đã trôi qua nhưng bài học về nắm bắt thời cơ từ Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945, cho đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Bỏ lỡ thời cơ là có tội với lịch sử, nhưng chớp thời cơ, hành động một cách vội vã, thiếu sự phân tích khoa học, làm ảnh hưởng đến lợi ích dân tộc, đến chủ quyền quốc gia thì càng có tội hơn.
- Xin cảm ơn ông!