Tọa đàm "Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử"

Thực hiện Kế hoạch số 1401- KH/ ĐĐQH15 ngày 20.2.2023 của Đảng Đoàn Quốc hội về tuyên truyền Đề cương về văn hóa Việt Nam, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục phối hợp với Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm với chủ đề "Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử". Chia sẻ tại Tọa đàm, các đại biểu đánh giá cao chủ đề Tọa đàm đề cập đến vấn đề khó, hay và có ý nghĩa thời sự nóng hổi trong bối cảnh hiện nay, nhất là khi vấn đề nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam là một trong những nhân tố cốt lõi quyết định sự thành bại của quá trình phát triển đất nước... Đây là vấn đề quan trọng, không chỉ cho hôm nay mà còn cho tương lai; có ý nghĩa tuyên truyền chính sách về văn hoá của Đảng, Nhà nước đến cộng đồng…

Đề cương về văn hóa Việt Nam được Đảng ta ban hành năm 1943 là văn kiện đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ giới trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Đề cương không chỉ có giá trị trong chỉ đạo hoạt động văn hóa - xã hội mà còn có ý nghĩa đối với việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về nền văn hóa Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

Đang diễn ra Tọa đàm Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương Văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử -0
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại buổi tọa đàm

Đang diễn ra Tọa đàm Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương Văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử -2

Trải qua 80 năm kể từ khi ra đời, nhiều định hướng quan trọng của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được Đảng ta kế thừa, bổ sung, phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới. 

Với mong muốn làm sáng tỏ thêm giá trị thực tiễn và lý luận từ Đề cương văn hóa 1943 đến công cuộc chấn hưng văn hóa Việt Nam hiện nay nói chung cũng như đối với vấn đề nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam nói riêng, Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức toạ đàm: Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử.

Đang diễn ra Tọa đàm Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương Văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử -1
Quang cảnh tọa đàm

Các khách mời tham gia Tọa đàm gồm:

- PGS.TS Tạ Quang Đông - Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;

- PGS. TS Bùi Hoài Sơn- Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội;

- PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ - Ủy viên Trung ương Đảng Khóa XII, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương;

- TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản;

- GS. TS. Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Bính - nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

Bí thư Đảng uỷ, Tổng Biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Phạm Thị Thanh Huyền: Văn hóa Việt Nam tiếp bước phát triển và có nhiều thành tựu rực rỡ sau 80 năm ngày Bản đề cương về văn hóa ra đời

Kính thưa các vị khách quý dự Tọa đàm!

Thực hiện Kế hoạch số 1401-KH/ Đ ĐQH15 ngày 20.2.2023 của Đảng Đoàn Quốc hội về tuyên truyền Đề cương về văn hóa Việt Nam, Ủy ban Văn hóa, Giáo dục phối hợp với Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức Tọa đàm với chủ đề Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương về văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử.Nội dung này được Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, mà trực tiếp là PGS. TS Bùi Hoài Sơn đã trao đổi cụ thể và giao cho Báo Đại biểu Nhân dân thực hiện. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn các đại biểu, các vị chuyên gia, nhà quản lý đã tham dự Toạ đàm.

Bí thư Đảng uỷ, Tổng Biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Phạm Thị Thanh Huyền: Văn hóa Việt Nam tiếp bước phát triển và có nhiều thành tựu rực rỡ sau 80 năm ngày Bản đề cương về văn hóa ra đời
Tổng Biên tập Báo Đại biểu Nhân dân Phạm Thị Thanh Huyền phát biểu tại tọa đàm

Kính thưa các đại biểu,

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã hun đúc, hình thành nên một nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, mang đậm truyền thống quý báu của dân tộc ta, thể hiện nổi bật phẩm chất, lương tri, trí tuệ, bản lĩnh và khí phách của con người Việt Nam. Từ trong cội nguồn sâu thẳm, văn hóa đã trở thành hồn cốt, là điểm tựa, dệt kết nên sức mạnh vĩ đại và trường tồn của sức mạnh Nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong các cuộc đấu tranh giành, giữ, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định một trong các nhiệm vụ trọng yếu là xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam. Trong đó, việc “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới” có vai trò đặc biệt quan trọng. Ngày 24.11.2022, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh việc: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại…”.

Ngược dòng lịch sử, cách đây 80 năm, trong tình thế nước sôi lửa bỏng của cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc, Ðề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943 được xem như bản tuyên ngôn, Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Ðảng ta. Không chỉ là sự đúc kết văn hóa Việt Nam mà còn là sự khái quát xu thế thời đại và nhiệm vụ cách mạng, vừa có giá trị thực tiễn, vừa có ý nghĩa lâu dài, như ngọn đèn soi rọi cho văn hóa Việt Nam trong nhiều giai đoạn cách mạng về sau.

80 năm qua kể từ ngày Bản đề cương văn hóa ra đời, văn hóa Việt Nam tiếp bước phát triển và có nhiều thành tựu rực rỡ. Chính văn hóa nâng bước cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam tỏa sáng; là nguồn lực, nền tảng để nâng cao trí lực, bồi dưỡng trí thức và được kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử.

Tọa đàm rất mong nhận được sự chia sẻ, phân tích, hiến kế của các nhà quản lý, nhà lập pháp, nhà lý luận - nhà báo… để sáng tỏ thêm giá trị thực tiễn và lý luận từ Đề cương văn hóa năm 1943 đến công cuộc chấn hưng văn hóa Việt Nam hiện nay.

Trước hết, làm rõ hơn về phạm vi văn hóa trong bản Đề cương năm 1943 và tác động đối với trí lực và tri thức của con người Việt Nam. Những việc cần làm nâng cao tầm nhận thức, tri thức và năng lực của người Việt Nam để đấu tranh cách mạng thành công, làm chủ và xây dựng đất nước thoát khỏi ách nô lệ tác động tích cực như thế nào trong công cuộc cách mạng vặn hóa giai đoạn này và về sau trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và trí thức, năng lực của người Việt từ nghèo nàn, lạc hậu, bị nô dịch, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”?

Đang diễn ra Tọa đàm Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương Văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử
Quang cảnh tọa đàm

Tiếp theo, vấn đề nâng cao trí lực và bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam được thể hiện như thế nào qua những mốc phát triển quan trọng trong bổ sung và hoàn thiện Đề cương về văn hóa năm 1943; vai trò giáo dục trong nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức; những bước kế thừa và phát triển của văn nghệ - lĩnh vực quan trọng làm nên bản sắc văn hóa dân tộc qua các thời kỳ kể từ khi ra đời Đề cương văn hóa 1943, tác động như thế nào đến trí lực và tri thức con người Việt Nam; những nguyên tắc trong hoạt động văn hóa đề ra từ Đề cương văn hóa 1943 được ghi nhận thế nào qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội là thứ XIII của Đảng?

Đặc biệt, làm rõ mối quan hệ giữa trí lực và tri thức, tác động thế nào trong chiến lược phát triển văn hóa và con người Việt Nam; hệ giá trị và chuẩn mực con người văn hoá mới có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam; trong bối cảnh khoa học, công nghệ và giáo dục là nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình phát triển đất nước, việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức đặt vị trí nào trong chiến lược phát triển văn hóa của Đảng và sẽ được giải quyết từng bước như thế nào; giải pháp đưa các nghị quyết về văn hóa, cụ thể là quan điểm, định hướng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về văn hóa khẩn trương đi vào cuộc sống hiệu quả nhất. Trong đó, vấn đề nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức sẽ được quan tâm giải quyết như ra sao?

Với tinh thần đó, rất mong sự chia sẻ, trao đổi, hiến kế của các nhà quản lý, nhà lập pháp, nhà lý luận - nhà báo… để buổi Tọa đàm của Báo Đại biểu Nhân dân thành công tốt đẹp.

Trân trọng cảm ơn và xin được lắng nghe sự chia sẻ, trao đổi của các diễn giả!

Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 - Kim chỉ nam cho đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ

MC: Ngược dòng lịch sử, cách đây 80 năm, trong tình thế nước sôi lửa bỏng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, Ðề cương về Văn hóa Việt Nam đã ra đời, được xem như bản Cương lĩnh đầu tiên về văn hóa của Ðảng ta. Ðề cương đã trình bày một cách ngắn gọn, súc tích các quan niệm, phạm trù, quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương châm, nguyên tắc của cuộc vận động văn hóa Việt Nam, thể hiện một tầm nhìn xa rộng, tư duy lý luận sắc bén và khả năng đúc kết thực tiễn sâu sắc của một đảng non trẻ sau 12 năm lãnh đạo cách mạng.

Bản Ðề cương đầu tiên về văn hóa vừa có tính lịch sử, vừa giàu tính thực tiễn và thời sự nóng bỏng. Đề cương là sự đúc kết văn hóa Việt Nam, sự khái quát xu thế thời đại và nhiệm vụ cách mạng. Vì vậy, nó có vừa có giá trị thực tiễn, vừa có ý nghĩa lâu dài, góp phần định hướng và dẫn đạo văn hóa Việt Nam trong nhiều giai đoạn cách mạng về sau. Ðến nay, một số luận điểm, nguyên tắc, vấn đề cốt lõi của Ðề cương vẫn giữ nguyên giá trị nền tảng, có thể kế thừa, phát triển và phát huy tác dụng trong công cuộc xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

MC: Thưa nhà báo, TS Nhị Lê, phạm vi văn hóa trong bản Đề cương năm 1943 nêu gồm 3 phần, đó là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Ông có thể nói rõ hơn về từng nội dung này? Và sự tác động của nó đối với trí lực và tri thức của con người Việt Nam?

TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản:

Đây là đề tài rất thú vị. Trước khi đi thẳng vào 6 chữ: Tư tưởng, học thuật nghệ thuật, chúng ta đều thấy, trong bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943 chỉ có hơn 500 chữ. Tôi xin nói rộng hơn để thấy không chỉ phần diễn kiến của Đề cương, mà ở đó thể hiện rõ tính thời đại của Đề cương.

Cho đến ngày nay, trong lịch sử, chưa có nước nào sụp đổ về kinh tế dẫn đến sụp đổ quốc gia, dân tộc, mà chỉ có sụp đổ về văn hóa dẫn đến sụp đổ về dân tộc, mà đã sụp đổ về dân tộc thì không còn gì cả. Mấy nghìn năm trước, cổ nhân từng nói rằng có 4 nhân tố giềng mối tạo nên xã hội, gìn giữ và phát triển một xã hội là: Nhân - Lễ -Liêm - Sỉ. Mất 1 dây thì nước nghiêng, mất 2 dây thì nước nguy, mất 3 dây thì nước đổ, mất 4 dây thì nước diệt. Đối với mỗi con người chúng ta cũng vậy: Cần - Kiệm Liêm - Chính là 4 nhân tố tạo nên một con người. Mất 1 điều người nghiêng, mất 2 điều thì người nguy, mất 3 điều thì thân bại, mất 4 điều thì danh liệt.

MC: Thưa nhà báo, TS Nhị Lê, phạm vi văn hóa trong bản Đề cương năm 1943 nêu gồm 3 phần, đó là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Ông có thể nói rõ hơn về từng nội dung này? Và sự tác động của nó đối với trí lực và tri thức của con người Việt Nam?
Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, TS. Nhị Lê chia sẻ tại tọa đàm

Thế mới càng thấm thía điều mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc tháng 11.2021: Văn hóa còn thì dân tộc còn!

Nhìn trong lịch sử đất nước nói riêng, toàn cầu nói chung, có thể đạt được vị thế cường quốc về kinh tế trong 50 năm, điển hình như Hàn Quốc. Nhưng để trở thành cường quốc văn hóa, hẹp hơn là một dân tộc thực sự văn hóa, văn hiến, cần đến hàng trăm, thậm chí nghìn năm. Nói thế để thấy, văn hóa làm nên phẩm giá, linh hồn, cốt cách của dân tộc, mà không có dân tộc thì không có quốc gia, không có văn hóa thì không có dân tộc. Nhìn ngay gần đây, người đi xâm lược biến thành kẻ bị đồng hóa về văn hóa. Sức mạnh văn hóa là như thế, nó vừa không định hình, không nắm bắt được, có gì đó biến ảo nhưng hiện hữu trong từng bước đi của dân tộc, số phận mỗi con người. Nói vậy để thấy vị thế, tầm nhìn mà bản Đề cương cách đây 80 năm đã hoạch định. 80 năm qua, dưới ngọn cờ của Đảng, chúng ta từng bước hiện thực hóa những nét sơ thảo ban đầu về tầm nhìn, chiến lược về văn hóa.

Với tôi, cuộc Tọa đàm này là cuộc “tọa đàm kép” để chúng tôi có thể nói rộng ra không chỉ Đề cương về Văn hóa năm 1943, mà còn là nhìn về chủ nghĩa Marx và vấn đề văn hóa Việt Nam. Nói bản Đề cương có 6 chữ - người chủ trì Tọa đàm đặt cho tôi rất khó.

Những năm 1940, người Pháp đô hộ đất nước này, cuộc thế chiến thứ II nổ ra, Nhật đặt chân xâm lược Việt Nam. Văn hóa Pháp bén rễ thâm căn ở mức nào ở Việt Nam là thứ văn hóa nô dịch. Cùng với đó, văn hóa phong kiến mấy nghìn năm càng ngày càng bộc lộ sự hủ bại, cùng nguy cơ văn hóa Nhật - văn hóa phù tang dưới sự xâm lược của phát xít Nhật ngày 22.9.1940. Để thấy rõ sự pha trộn về tư tưởng, văn hóa, văn minh đang đặt ra trước dân tộc này, trực tiếp là trước Đảng sự lựa chọn lịch sử.

Đảng không đặt về kinh tế, chính trị vào thời điểm gay go, một mất một còn, số phận dân tộc một cổ 3 tròng khi ấy - Tại sao? Nếu không chiếm được văn hóa thì chính trị cũng vô nghĩa, nếu không chiếm được văn hóa thì không có động lực nào cho kinh tế phát triển. Xét cho cùng không chiến thắng về văn hóa, không đi trước về văn hóa thì không có quốc gia nào cả. Cho nên, nhìn bản Đề cương năm 1943 thấy được tầm vóc vĩ đại, tầm chiến lược diễn kiến đến mức nào, thấy được nhu cầu cấp bách của dân tộc ta như thế nào! Như tôi nói, văn hóa chính là con người, còn ngoại diên của nó, văn hóa chính là kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự… Không cởi bỏ ách nô lệ cho 20 triệu người bấy thì không nói gì đến chính trị giải phóng dân tộc, phát triển kinh tế với tư cách một quốc gia độc lập. Cho nên, với bản Đề cương về văn hóa năm 1943, Đảng đã lựa chọn vấn đề văn hóa là khó nhất, sâu sắc nhất nhưng căn bản nhất.

MC: Thưa nhà báo, TS Nhị Lê, phạm vi văn hóa trong bản Đề cương năm 1943 nêu gồm 3 phần, đó là: Tư tưởng, học thuật và nghệ thuật. Ông có thể nói rõ hơn về từng nội dung này? Và sự tác động của nó đối với trí lực và tri thức của con người Việt Nam?

Ở đây là sự lựa chọn trước tiên về tư tưởng. Tại sao bản Đề cương có 6 chữ, tại sao lại là tư tưởng, học thuật, nghệ thuật? Trong bối cảnh bấy giờ, nếu không rõ sự lựa chọn tư tưởng sẽ không có gì cả cho hành động. Sự hỗn mang về tư tưởng bất giờ, bao nhiêu thứ tràn vào Việt Nam, rường cột của nó là tư tưởng. Cho nên vấn đề tư tưởng là hàng đầu. Có lựa chọn tư tưởng mà Đề cương đặt ra. Không có khái niệm công cụ thì không có tư duy khoa học nào cả. Liên quan đến sự lựa chọn hệ tư tưởng sau này mà bản Đề cương khẳng định ngay. Sau này tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ 2, Đảng đặt hẳn tiêu đề mà Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày trước Hội nghị là chủ nghĩa Marx và vấn đề phát triển văn hóa Việt Nam.

Thứ hai là học thuật, ngay điều bản Đề cương đặt ra được trả lời trong bản chủ nghĩa Marx và vấn đề văn hóa Việt Nam, phát triển khoa học, học thuật. Văn hóa bao hàm tất cả các nền khoa học. Muốn kiến tạo văn hóa Việt Nam thì vấn đề thứ 2 là học thuật. Đề cương nhấn rất mạnh.

Đặt 6 chữ này - linh hồn trong bản Đề cương tôi cảm nhận được trong bối cảnh như thế để thấy chân dung văn hóa, nội hàm văn hóa mà bản Đề cương kiến tạo, hoạch định, từng bước tổ chức thực hiện. 6 chữ: Tư tưởng, học thuật, nghệ thuật - đó chính là 3 giềng mối căn bản, gốc rễ để kiến tạo dung mạo, hệ giá trị của toàn bộ sự vận động của nền văn hóa Việt Nam. Sự phát triển này mới từng bước làm nên nấc thang mà sau này chúng ta đạt được.

Tôi đọc chủ nghĩa Marx và vấn đề văn hóa Việt Nam, soi chiếu, thấy được sự chỉnh thể về tầm nhìn chiến lược mang tính thời đại, nội hàm căn bản của văn hóa, công việc cần làm đối với kiến tạo, phát triển văn hóa Việt Nam. Gói gọn lại 6 chữ, không thể không đặt đến nhân tố có yếu tố quyết định là sự lãnh đạo của Đảng. Chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo, cùng với chủ nghĩa Marx. Tôi gọi đó là đột phá đầu tiên. Chỉ hai năm sau, những điều tiên liệu của Đảng từ Đề cương kết tinh thành biểu tượng vô địch của Cách mạng tháng Tám. Văn hóa đã làm trỗi dậy sức mạnh của quân sự.  

Với cương vị là người nghiên cứu về văn hóa, không bắt đầu từ công cụ để tư duy thì không có khái niệm khoa học nào cả. Một lần nữa tôi khẳng định rằng, chỉ có văn hóa mới đưa chúng ta đi xa, nghĩ dài.

MC:Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ) là ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa Việt Nam trong giai đoạn lúc bấy giờ.

Vâng, thưa PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, ngay từ khi bắt đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bản Đề cương đã đề ra nguyên tắc phản ánh sự đặc sắc của văn hóa Việt, hướng tới nhân dân - nguồn lực cách mạng, nguồn lực dựng xây đất nước và bác bỏ cái lạc hậu, phản tiến bộ, phản văn hóa; tiếp thu và lấy khoa học làm thước đo kiểm nghiệm và phát triển nền văn hóa tiến tiến. Ông có thể chia sẻ rõ hơn ý nghĩa của ba nguyên tắc này trong cách mạng văn hóa lúc bấy giờ và cả giai đoạn sau này?

PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương:

Về 3 nguyên tắc, có thể nói tính chất lớn của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng.

Hiện nay, có hơn 300 định nghĩa về văn hóa, mỗi người có một góc nhìn và phương pháp nghiên cứu nhưng tóm lại, văn hóa là những tinh hoa mà con người sáng tạo ra, bồi đắp kết tinh từ thế hệ này sang thế hệ khác, đời này sang đời khác. Những gì tinh túy nhất, đó là văn hóa.

Thứ nhất, về nguyên tắc dân tộc hóa. Nguyên tắc này được nêu lên đầu tiên trong Đề cương về văn hóa (Tổng Bí thư Trường Chinh đã viết), đây là tính chất lớn. Văn hóa có giá trị mang tính phổ quát của nhân loại. Nhưng văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi đất nước có sắc thái và bản sắc riêng. Cho nên dân tộc nào cũng thế, văn hóa còn thì dân tộc còn… Tính chất dân tộc của văn hóa là như thế.

MC: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng). Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ) là ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa Việt Nam trong giai đoạn lúc bấy giờ. Vâng, thưa PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, ngay từ khi bắt đầu cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bản Đề cương đã
Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ chia sẻ tại tọa đàm

Hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc ta, các triều đại phong kiến có thể mục ruỗng, suy tàn nhưng có những nghệ thuật, tinh hoa thời kỳ đó có tính tích luỹ vượt lên. Điều này không phản ánh bản chất của chế độ. Đó là tính dân tộc chứ không có tính nhất thời của triều đại.

Thứ hai, nguyên tắc khoa học hóa. Đây là những tiến bộ, phù hợp đời sống con người, tác động tích cực vào đời sống, kể cả đời sống tinh thần lẫn vật chất. Trong chính trị có văn hóa, trong kinh tế có văn hóa. Chính trị có văn hóa thì chính trị mới bền vững, còn chính trị mà đi phản lại những giá trị văn hóa thì chỉ nhất thời.

Có văn hóa mới tập hợp được mọi người, có văn hóa mới dẫn dắt được cả dân tộc, đất nước, hay cộng đồng đi lên. Cho nên khoa học là những gì tiến bộ. Lịch sử cho thấy, Việt Nam tiếp thu văn hóa của nước láng giềng (Trung Quốc, Ấn Độ), sau này là phương Tây. Hiện nay, chính sách hội nhập quốc tế mở cửa, chúng ta tiếp xúc với nhiều nền văn hóa… Đây là yếu tố khoa học mà cách đây 80 năm, Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) nêu ra.

Thứ ba, nguyên tắc đại chúng hóa rất rõ. Bởi văn hóa là sáng tạo của Nhân dân từ đời này sang đời khác. Trong sáng tạo văn hóa nói chung, sáng tạo văn học nghệ thuật nói riêng có 2 mảng (đại chúng và tinh hoa). Tinh hoa là những tầng lớp tri thức của thời kỳ đó tạo nên những đỉnh cao của văn hóa. Để có đỉnh cao đó phải có nền tảng của đại chúng.

Nếu chế độ phong kiến trước đây, tầng lớp bóc lột thường bắt bộ phận làm văn hóa đi phục vụ cho giai cấp thống trị (mua vui)… Nhưng văn hóa mới trong Đề cương văn hóa năm 1943, văn hóa phải phục vụ quần chúng. Như vậy mới có giá trị đích thực. 

Ba tính chất về văn hóa dân tộc, khoc học, đại chúng là vậy. Trong quá trình 80 năm qua, ba nguyên tắc đó tiếp tục được bổ sung, phát triển. Nhưng những nền tảng cơ bản ban đầu vẫn được giữ vững. Nói xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc thì trong tiên tiến có khoa học trong đó, nhưng dứt khoát phải đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đậm đà bản sắc dân tộc phải có tính đại chúng trong đó.

Tôi nhớ năm 1983, kỷ niệm 40 năm Đề cương văn hóa 1943, Tổng Bí thư Trường Chinh có nói, thời điểm đó có những hạn chế nhất định, đây mới đề cương thôi nên có mặt khiếm khuyết, có những mặt chưa hoàn chỉnh. Nhưng trong quá trình lãnh đạo của Đảng, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận của Đảng về văn hóa, văn nghệ để nâng văn hóa Việt Nam lên tầm cao mới. Tầm cao nào thì cơ bản cũng dựa trên 3 nền tảng: Dân tộc, khoa học, đại chúng.

Nhìn lại 80 năm qua có thể thấy rằng, chúng ta thực sự may mắn. Từ khi chưa giành được chính quyền đã có Đề cương văn hóa. Bác Hồ nói trong Hội nghị văn hóa toàn quốc 1946: Văn hóa soi đường quốc cho quốc dân đi. Đến hôm nay, chúng ta tự hào về Đảng ta, đất nước ta, dân tộc ta… Trong giai đoạn khó khăn như thế mà có Đề cương văn hóa như vậy.

MC:Ra đời trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam còn hoạt động bí mật, chưa giành được chính quyền. Và mặc dù Đề cương hết sức khái quát nhưng đã chỉ ra những việc phải làm hết sức quan trọng, ý nghĩa lâu dài nâng cao tầm nhận thức, tri thức và năng lực của người Việt Nam để đấu tranh cách mạng thành công, làm chủ và dựng xây đất nước thoát khỏi ách nô lệ. Đề cương văn hoá năm 1943 chỉ rõ 3 việc phải làm: Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng; Tranh đấu về tông phái văn nghệ làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng; Tranh đấu về tiếng nói, chữ viết…

Vâng xin được chia sẻ vấn đề này với Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, GS.TS, NGND Trần Văn Bính.Ông đánh giá ý nghĩa thực tiễn của việc cần phải làm này. Và điều đó tác động tích cực như thế nào trong công cuộc cách mạng vặn hóa giai đoạn này và về sau trong việc hình thành thế giới quan, nhân sinh quan và trí thức, năng lực của người Việt từ nghèo nàn, lạc hậu, bị nô dịch, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”?

GS. TS. Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Bính - Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:

Vấn đề MC đưa ra, qua phát biểu của khách mời trước đã bàn khá rõ, tôi rất tán thành. Ở đây tôi chỉ muốn nói thêm một số ý văn tắt.

Có thể coi bản Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng như một văn kiện, cương lĩnh hành động, như lời hiệu triệu đối với toàn Đảng toàn dân, đặc biệt giới trí thức văn hóa và nghệ sỹ lúc bấy giờ. Ở thời kỳ nào cũng vây, tầng lớp trí thức văn hóa và nghệ sỹ luôn có tác động quan trọng cả về tinh thần và vật chất đối với phần lớn quần chúng Nhân dân. Cho nên, khi nói phạm vi ảnh hưởng của đề cương này, phần lớn là quần chúng Nhân dân nhưng trong đó tầng lớp trí thức văn hóa và nghệ sỹ là đáng lưu ý. Quả thực, nếu chúng ta so sánh nền văn hóa nghệ thuật của chúng ta trước cách mạng và sau cách mạng sẽ thấy một sự đổi đời ghê gớm. Và sự đổi đời đó bắt đầu từ bản Đề cương văn hóa.

MC: Ra đời trong hoàn cảnh cách mạng Việt Nam còn hoạt động bí mật, chưa giành được chính quyền. Và mặc dù Đề cương hết sức khái quát nhưng đã chỉ ra những việc phải làm hết sức quan trọng, ý nghĩa lâu dài nâng cao tầm nhận thức, tri thức và năng lực của người Việt Nam để đấu tranh cách mạng thành công, làm chủ và dựng xây đất nước thoát khỏi ách nô lệ. Đề cương văn hoá năm 1943 chỉ rõ 3 việc phải làm: Tranh đấu về học thuyết, tư tưởng; làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng;
Nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, GS. TS. Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Bính chia sẻ tại tọa đàm 

Nếu ai nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật sẽ thấy, trước cách mạng, cảnh tù túng cô đơn và bế tắc của đội ngũ văn nghệ sỹ. Thậm chí, muốn yêu nước nhưng không dám nói yêu nước vì yêu nước là quốc cấm. Chỉ dám nói xa xôi, không dám nói trực diện, đó là nỗi đau của người nghệ sỹ. Từ đó, mọi khát vọng sáng tạo của họ bị vùi dập. Bản đề cương văn hóa là sự giải phóng, thành công lớn sau cách mạng tháng 8, chúng ta đổi đời một đội ngũ văn nghệ sĩ mới. Hầu hết các văn nghệ sỹ có mặt lúc bấy giờ đều có những tiếng nói mới, khuynh hướng mới để tiếp thu sự sáng tạo của mình và làm cho sự sáng tạo đó có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng Nhân dân

Tác phẩm Đôi mắt của Nhà văn Nam Cao là minh chứng về sự đổi đời đó. Đôi mắt thay đổi thực sự, trước đây nhìn cuộc đời khác, bây giờ khác, trước đây chỉ thấy lầm lũi khổ hạnh, bây giờ thấy Nhân dân cực kỳ sáng tạo, anh dũng, chấp nhận hi sinh, vượt qua gian khó. Trong hai giai đoạn kháng chiến chống Pháp và Mỹ, văn hóa nghệ thuật của chúng ta đã đạt được một đỉnh cao lớn. Như Đại hội lần thứ 4 của Đảng đã khẳng định: Nền văn hóa nghệ thuật trong thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của nền văn nghệ chống đế quốc trong thời đại ngày nay. Hàng loạt tác phẩm văn nghệ của chúng ta được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Quả thực có một sự đổi đời trong văn hóa nghệ thuật. Và không chỉ trong văn hóa nghệ thuật, trong lĩnh vực đời sống tinh thần của con người cũng như vậy thôi, trong chiến tranh ác liệt, con người Việt Nam vẫn tự tại, ung dung. Không dễ gì có được tinh thần đó. Bây giờ không mưa bom bão đạn nhưng lòng chúng ta có thanh thản không, chúng ta có sẵn sàng trao cho nhau nụ cười không?

Với những phân tích trên, có thể kết luận: Bản đề cương văn hóa của Đảng năm 1943 như một văn kiện quan trọng để chuẩn bị tinh thần cho cuộc cách mạng tháng 8.1945 và mở đầu cho thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ sau này.

Tiếp nối mạch nguồn văn hoá dân tộc từ Đề cương về văn hoá năm 1943 - Tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử

MC: 80 năm qua, kể từ Đề cương về văn hóa năm 1943 vạch ra hướng đi cho cách mạng văn hóa, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước có nhiều bước đi tiếp nối mạnh nguồn văn hóa dân tộc, thực hiện cuộc cách mạng văn hóa với nhiều thành công. Có thể thấy văn hóa trở thành một mặt trận thường trực, kiên cường và thường xuyên được tổng kết, rút kinh nghiệm và để ra hướng phát triển mới. Có thể điểm qua những bước phát triển của văn hóa ghi nhận qua các hội nghị và nghị quyết như sau:

Năm 1946 tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất. Năm 1948 tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai và đi vào  thời kỳ kháng chiến kiến quốc chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Tiếp đến thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam. Năm 1960, chúng ta có Nghị quyết Đại hội Đảng III và sau đó là Nghị quyết Đại hội IV, V, VII, IX, X, XI, XII. Đặc biệt là 2 nghị quyết chuyên đề về văn hóa là Nghị quyết 8 Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 và Nghị quyết 33, Trung ương 9 Khóa XI năm 2014. Các nghị quyết đều xác định văn hóa là một nội dung trọng tâm và có sự điều chỉnh, bổ sung phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Và trong tiến trình phát triển văn hóa đất nước bao giờ cũng đặt con người là trọng tâm trước hết và trên hết và chính là vì hạnh phúc của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Nền văn hóa mới của nước nhà lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”.

MC: Vâng, thưa các quý vị khách mời. Văn hóa qua các mốc lịch sử từ Đề cương về văn hóa năm 1943 tới nay đã có những bổ sung, sáng tạo và hoàn thiện hơn, cụ thể hơn và dần được lượng hóa bằng các tiêu chí cụ thể, cô đọng trong các từ ngữ súc tích.

Câu hỏi đầu tiên phần này xin trao đổi với ông Tạ Quang Đông – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ông có thể điểm qua những mốc phát triển quan trọng trong bổ sung và hoàn thiện Đề cương về văn hóa năm 1943? Và về vấn đề nâng cao trí lực và bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam được thể hiện như thế nào trong quá trình này?

PGS. TS Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

Trước tiên tôi cảm ơn Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức tọa đàm với chủ đề hết sức cần thiết, quan trọng trong tình hình mới, trong việc xây dựng con người mới và nền văn hóa mới.

Chúng ta cũng nhắc lại Đề cương văn hóa năm 1943 để thấy những nguyên tắc được đề ra trong bản Đề cương này qua 80 năm đến giờ này chúng ta vẫn tiếp tục hoàn thiện, bổ sung và nâng tầm những nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa. Những ý kiến các đại biểu trước đã nói tầm quan trọng cũng như tính logic của những nguyên tắc này và trong bối cảnh giai đoạn 1940 – 1943 bản Đề cương khi ra đời đã rất rõ những gì chúng ta đang cần khắc phục và hướng tới. Vai trò của con người trong tổng thể bản Đề cương này được xuất hiện ở nhiều nơi, nhiều chỗ. Đến Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đã dần cụ thể hóa, lượng hóa thế nào việc xây dựng con người mới, xây dựng đội ngũ trí thức mới, các hệ giá trị về văn hóa, con người, gia đình.

MC: Vâng, thưa các quý vị khách mời. Văn hóa qua các mốc lịch sử từ Đề cương về văn hóa năm 1943 tới nay đã có những bổ sung, sáng tạo và hoàn thiện hơn, cụ thể hơn và dần được lượng hóa bằng các tiêu chí cụ thể, cô đọng trong các từ ngữ súc tích. Câu hỏi đầu tiên phần này xin trao đổi với ông Tạ Quang Đông – Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Ông có thể điểm qua những mốc phát triển quan trọng trong bổ sung và hoàn thiện Đề cương về văn hóa năm 1943? Và về vấn đề nâng cao trí lực và
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, PGS. TS Tạ Quang Đông chia sẻ tại tọa đàm

Ngay từ đầu năm 1943, trong bản Đề cương đã thấy rõ chúng ta đưa được những nhiệm vụ chính mà văn hóa cần thực hiện và cụ thể hơn là những nhà văn hóa cần thực hiện là chống lại văn hóa phản tiến bộ và xây dựng nền văn hóa mới, dân chủ với những công việc cơ bản như đấu tranh học thuyết về tư tưởng, tiếng nói, chữ viết. Đến Hội nghị Văn hóa lần thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có đúc kết rất cơ bản và chúng ta luôn luôn lấy là ngọn đuốc chỉ đường cho đến ngày hôm nay là “văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện tự lập tự cường tự chủ. Tại Hội nghị Văn hóa lần thứ hai, Đảng ta cũng xác định rằng phải hình thành đội ngũ tri thức mới, đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến cứu quốc và cách mạng Việt Nam.

Đến năm 1946 - 1948 đã bắt đầu hình thành những từ ngữ đầu tiên về đội ngũ trí thức mới và vai trò của văn hóa trong công cuộc kháng chiến.

Tiếp theo của những nguyên tắc này, trong Đại hội Đảng lần thứ III, IV đặc biệt là Đại hội lần thứ IV cũng đã xác nhận phải xây dựng con người mới, nền văn hóa mới tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội Đảng lần thứ V đã bắt đầu xuất hiện khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa và phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa và nền văn hóa phải có nội dung xã hội chủ nghĩa với tính dân tộc, tính đảng, tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế cộng sản.

Trong giai đoạn 1986 – 1994 chúng ta xuất hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII và trong đó xác định “xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây là 1 trong 6 đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Và Nghị quyết xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc tại Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII cũng là một mấu chốt để chúng ta phát triển văn hóa trong thời kỳ mới.

Tiếp theo, trên tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII, chúng ta thấy rằng trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, X, XI đã một lần nữa khẳng định “xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”. Chúng ta có thể thấy rằng các nguyên tắc của Đề cương năm 1943 là “đại chúng, khoa học” luôn luôn được đưa vào và dựa trên Nghị quyết đặc thù và giá trị của truyền thống văn hóa của chúng ta, dân tộc hóa.

Sau 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ra Nghị quyết số 33 rất quan trọng trong đó chỉ rõ xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết này tiếp tục thể hiện sự phát triển tư duy lý luận sáng tạo của Đảng trong việc nhận thức vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố của con người; xác định phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù hoạt động xây dựng phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong giai đoạn mới. Và chúng ta thấy rằng, mỗi kỳ Đại hội Đảng, vai trò của văn hóa, con người dần được hoàn thiện và đưa lên để thực sự trở thành nền tảng, động lực của xã hội cũng như mục tiêu phát triển.

Đến Đại hội Đảng lần thứ XII đã nhận định rằng xây dựng nền văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân, thiện, mỹ, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện để trở thành mục tiêu của chiến lược phát triển; đúc kết xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII yêu cầu tập trung nghiên cứu và xây dựng, triển khai hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người gắn với hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Phải nói rằng, vai trò của con người và đội ngũ trí thức đã dần dược hình thành từ năm 1943 trong Đề cương Văn hóa đầu tiên và qua 80 năm ngày càng được nhận diện một cách sâu sắc, rõ ràng hơn. Dựa trên những hệ giá trị này, dựa trên những chuẩn mực của con người thì chúng ta sẽ xây dựng một đội ngũ tri thức mới toàn diện, những con người mới để phục vụ hiệu quả công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

MC: Vâng thưa PGS. TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội: Giáo dục là yếu tố đầu tiên xây dựng con người mới, văn hóa mới, là quốc sách hàng đầu. Vậy pháp luật về lĩnh vực này được xây dựng và hoàn thiện như thế nào? Giáo dục đóng vai trò như thế nào trong nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức?

PGS. TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội:

Trước tiên, tôi đánh giá cao nỗ lực của Báo Đại biểu Nhân dân trong việc tổ chức tọa đàm quan trọng này dịp kỷ niệm 80 năm Đề cương văn hóa Việt Nam. Chủ đề mà chúng ta thảo luận ngày hôm nay là vấn đề nóng, cần thiết, bởi không chỉ được đề cập trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 mà còn trong bối cảnh chúng ta đang tiến hành cải cách giáo dục theo hướng thay đổi tư duy, thay đối phương pháp để đưa giáo dục trở thành công cụ giúp đất nước phát triển bền vững, tương xứng với thời đại Hồ Chí Minh.

MC: Vâng thưa PGS. TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội: Giáo dục là yếu tố đầu tiên xây dựng con người mới, văn hóa mới, là quốc sách hàng đầu. Vậy pháp luật về lĩnh vực này được xây dựng và hoàn thiện như thế nào? Giáo dục đóng vai trò như thế nào trong nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức?
Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội, PGS. TS Bùi Hoài Sơn chia sẻ tại tọa đàm

Phải khẳng định văn hóa là một khái niệm rất rộng, có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa. Điều này thể hiện sự phức tạp, sự đa dạng các quan niệm khác nhau khi nói về văn hóa, có nghĩa rằng văn hóa sẽ gây ra nhiều tranh cãi nếu không thống nhất được quan điểm. Đó cũng là lý do tại sao khi bàn về văn hóa, một trong những điều đầu tiên là phải giới hạn phạm vi văn hóa trong bất kì văn bản nào. Và trong Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, chúng ta đã đưa văn hóa vào ba cái lĩnh vực để phục vụ cho cách mạng văn hóa của Đảng, đó là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.

Thực ra học thuật là vô cùng quan trọng, đây là lĩnh vực trụ cột trong văn hóa và được quan tâm đặc biệt. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì học thuật là một bộ phận của văn hóa. Trong văn kiện Nghị quyết Trung ương V, thì giáo dục được đề cập đến như một phần của văn hóa.

Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì văn hóa và giáo dục có mối quan hệ biện chứng với nhau. Văn hóa có thể tạo ra những giá trị cho giáo dục, có thể truyền bá giáo dục, có thể nuôi dưỡng giáo dục và ngược lại… Đó là lý do tại sao trong giai đoạn đầu của đất nước thì diệt "giặt dốt" là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cùng với diệt "giặc đói" và giặc ngoại xâm. Đó cũng là sự nhấn mạnh của câu nói của Thân Nhân Trung: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Như ý kiến, phân tích trước của các khách mời, chuyên gia thì giai đoạn năm 1940 trước khi giành được độc lập, chúng ta gặp một nguy cơ rất lớn – đó là 90 % dân số mù chữ và không đọc được, không hiểu được những tuyên truyền và vì thế khó hình thành được sức mạnh từ việc hiểu biết về giá trị dân tộc cũng như tinh thần yêu nước. Ngay trong lịch sử dân tộc của chúng ta thì cũng chứng minh: văn hóa thịnh thì đất nước thịnh, văn hóa nguy thì đất nước nguy!

Đó cũng là lý do tại sao chúng ta mong muốn sử dụng văn hóa như một sức mạnh tổng hợp cho dân tộc, và muốn có sức mạnh đó thì phải tập trung cho giáo dục, phải giúp người dân có thể hiểu những đường lối, tuyên truyền của Đảng. Trên cơ sở bừng sáng về tri thức như vậy, trên cơ sở khai sáng và khai phóng chúng ta sẽ hình thành nên sức mạnh của mỗi người dân bằng sức mạnh của tri thức.

Còn nhớ, dù rất bộn bề công việc nhưng trong thời gian hàng chục năm chiến tranh nhưng đất nước vẫn cử hàng vạn lượt học sinh sinh viên du học nước ngoài. Khi trở về họ đều là những người tiêu biểu và trở thành lực lượng chính trên mặt trận tri thức. Chúng ta biết, để phát triển văn hóa chúng ta cần phải có những tầng lớp tinh hoa như vậy, vì chỉ chỉ có tinh hoa mới dẫn dắt được sự phát triển văn hóa một cách thuận lợi, tích cực.

Khi chúng ta kỷ niệm 40 năm Đề cương văn hóa Việt Nam, Tổng Bí thư Trường Chinh lúc đó cũng nhấn mạnh: văn hóa rất quan trọng với phát triển đất nước. Văn hóa có thể kìm hãm hoặc có thể thúc đẩy sự phát triển đất nước. Như vậy, văn hóa tác dụng tích cực hoặc tiêu cực là do cách chúng ta quan tâm, chúng ta xử lý những vấn đề liên quan đến văn hóa.

Nhìn một cách biện chứng, khách quan như vậy để chúng ta thấy được vai trò của giáo dục như thế nào. Nếu chúng ta phát huy được vai trò của giáo dục, phát huy được vai trò của trí thức thì sẽ phát huy được tính tích cực, những mặt hay và những giá trị của văn hóa. Bằng không, chúng ta sẽ để những yếu tố như yếu tố nô dịch, tư tưởng nô lệ còn lẩn khuất, chiếm lĩnh tâm tưởng của mỗi người thì khó có thể tạo ra sự đột biến, tạo ra cách mạng, tạo điều kiện cho văn hóa phát triển và từ đó tạo ra nền tảng đất nước phát triển được…

MC: Vâng thưa PGS. TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội: Giáo dục là yếu tố đầu tiên xây dựng con người mới, văn hóa mới, là quốc sách hàng đầu. Vậy pháp luật về lĩnh vực này được xây dựng và hoàn thiện như thế nào? Giáo dục đóng vai trò như thế nào trong nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức?

Trong bất kì kỳ họp Quốc hội nào, cử tri và nhân dân đều thấy các chất vấn của ĐBQH liên quan đến vấn đề giáo dục đều là những chất vấn nóng; và Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là một trong những ghế "nóng" nhất trên trong nghị trường Quốc hội. Điều đó chứng minh rằng giáo dục nhận được sự quan tâm đặc biệt. Trong bối cảnh hiện nay, một trong những điều chúng ta đang mong muốn tạo ra đột phá cho đất nước chính là cải cách giáo dục, chuyển từ giáo dục truyền đạt kiến thức sang là giáo dục tạo ra sự phát triển toàn diện cho người học, từ đó lan tỏa tính tích cực, tính chủ động từ giáo dục cho toàn xã hội.

Quốc hội đang tiến hành giám sát về việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới 2018 và đổi mới sách giáo khoa. Những thông tin trên cho thấy sức sống của Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 cho đến tận ngày hôm nay. Chúng ta tiếp tục tập trung vào giáo dục như một phương tiện để phát huy những giá trị, tính tích cực của văn hóa, từ đó giúp đất nước ngày càng phát triển bền vững.

MC: Cùng với tư tưởng và học thuật, thì văn nghệ là lĩnh vực quan trọng làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Vâng thưa PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, lĩnh vực tưởng như đặc thù này có bước kế thừa và phát triển như thế nào qua các thời kỳ kể từ khi ra đời Đề cương về văn hóa năm 1943? Và nó có tác động như thế nào đến trí lực và tri thức con người Việt Nam?

PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương:

Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị nêu: Văn học nghệ thuật là bộ phận quan trọng và đặc biệt tinh tế của văn hóa.

Trong Đề cương văn hóa năm 1943 (có 3 mảng: tư tưởng, nghệ thuật và học thuật). Đề cương có tính chất thức tỉnh giới trí thức và văn nghệ sỹ, không bị luận thuyết của phát xít Nhật hay thực dân Pháp lừa gạt, mua chuộc, đánh lạc hướng… Đề cương văn hóa năm 1943 có tính chất mở đường, dẫn đường cho lực lượng trí thức, văn nghệ sỹ đi theo cách mạng.

MC: Cùng với tư tưởng và học thuật, thì văn nghệ là lĩnh vực quan trọng làm nên bản sắc văn hóa dân tộc. Vâng thưa PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, lĩnh vực tưởng như đặc thù này có bước kế thừa và phát triển như thế nào qua các thời kỳ kể từ khi ra đời Đề cương về văn hóa năm 1943? Và nó có tác động như thế nào đến trí lực và tri thức con người Việt Nam?

Tháng 8.1945, đất nước giành được độc lập. Nếu như không có Đề cương văn hóa, cách mạng cũng có thể thành công nhưng có thể sẽ muộn hơn, và không được vang dội như vậy. Nhà văn Nguyễn Đình Thi có nói: Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc 24.11.1946, lúc đó dự kiến tổ chức 3-4 ngày nhưng do Pháp đánh vào Hải Phòng, nên chỉ tổ chức 1 ngày. Trong tình thế nước sôi lửa bỏng vẫn dành một ngày cho văn hóa… Hai năm sau, tại chiến khu Việt Bắc (16-20.7.1948), tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ 2. Ba ngày sau, Hội nghị Văn nghệ toàn quốc lần thứ nhất.

Từ sự dẫn đường, thức tỉnh của Đề cương văn hóa 1943, sau cách mạng tháng 8.1945, tri thức, văn nghệ sỹ đi vào kháng chiến với lòng yêu nước và cảm hứng, nguồn năng lượng mới, không đo đếm được. Đơn cử như ông Đặng Thai Mai đã chỉ ra tính chất văn học Việt Nam thời kỳ mới; hay công trình nghiên cứu, truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Tưởng…

Thời kỳ đó, không chỉ nói sáng tác mà lý luận văn học nghệ thuật rất sôi nổi. Hội nghị văn nghệ bộ đội (tháng 4.1949); Hội nghị tranh luận văn nghệ Việt Bắc (tháng 9.1949); Hội nghị tranh luận về sân khấu Việt Bắc; Hội nghị văn nghệ Nam Bộ (1951)…

Về văn xuôi, nổi lên: Một lần tới Thủ đô (Trần Đăng); Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng);… đặc biệt truyện ngắn Đôi mắt (Nam Cao)… “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước mà lòng phơi phới dậy tương lai” - đây không phải là câu khẩu hiệu mà là tiếng lòng… Hay như trong tác phẩm “Đất nước đứng lên” không chỉ đồng bào Tây Nguyên mà cả dân tộc đứng lên đi theo Bác Hồ. Trong đó, anh hùng Núp là hình tượng sáng chói - tượng đài không chỉ của dân tộc Tây Nguyên mà của các DTTS ở Việt Nam.

Trong kháng chiến chống Pháp, mặc dù khó khăn nhưng các loại hình văn học nghệ thuật đều phát triển mạnh, đều đạt được nhiều thành tựu. Đề cương văn hóa tạo nên cảm hứng, động lực sáng tạo văn học nghệ thuật. Những giá trị văn hóa đúc kết đã phát triển từ Đề cương văn hóa 1943 cho đến Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Hội nghị Trung ương 9 Khóa XI (Nghị quyết 33 về phát triển văn hóa và con người Việt Nam) đáp ứng thời kỳ bền vững phát triển đất nước thì văn hóa được đề cao. Và mới đây nhất là Hội nghị văn hóa toàn quốc (24.11.2021), tại đây, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng.

Những ảnh hưởng, tác động hết sức tích cực của Đề cương văn hóa năm 1943 và đường lối văn hóa, văn nghệ, phát triển khoa học - công nghệ của Đảng ta đã đi lên bậc mới và tư duy của Đảng ta về văn hóa văn nghệ, tri thức về khoa học – công nghệ lên tầm mới…

MC: Dân tộc, đại chúng, khoa học là ba nguyên tắc trong hoạt động văn hóa đề ra từ Đề cương về văn hóa năm 1943. Đây cũng là vấn đề xuyên suốt qua các thời kỳ. Vây, thưa GS.TS, NGND Trần Văn Bính, vấn đề này được ghi nhận thế nào qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội Đảng XIII?

GS. TS Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Bính, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa và phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:

Dân tộc và văn hóa thì các khách mời đã nói nhiều rồi. Tôi xin dùng hình ảnh này để dễ nhớ, chúng ta có thể coi văn hóa và dân tộc là hai trang của một tờ giấy. Đố ai có thể tách một trong hai trang đó ra khỏi một tờ giấy. Bởi vì hành động đó có nghĩa là xé rách cả một tờ giấy. Tách dân tộc ra khỏi văn hóa thì dân tộc chỉ là một bầy người mà thôi. Tách văn hóa ra khỏi dân tộc thì văn hóa không tồn tại. Dân tộc tạo dựng, phát triển văn hóa. Văn hóa góp phần sáng tạo và phát triển dân tộc.

Quần chúng Nhân dân sáng tạo ra văn hóa. Lê Nin đã nhiều lần căn dặn chúng ta, nghệ thuật thuộc về Nhân dân, phải được Nhân dân hiểu và yêu thích. Đó là thước đo của nghệ thuật. Tôi muốn nói điều này vì trong sự đổi mới hôm nay, đây đó vẫn có những hiện tượng nhiều khi chúng ta quên rằng tác phẩm này có được quần chúng yêu thích không hay chỉ giới hạn trong một nhóm người nhỏ hẹp.

MC: Dân tộc, đại chúng, khoa học là ba nguyên tắc trong hoạt động văn hóa đề ra từ Đề cương về văn hóa năm 1943. Đây cũng là vấn đề xuyên suốt qua các thời kỳ. Vây, thưa GS.TS, NGND Trần Văn Bính, vấn đề này được ghi nhận thế nào qua các kỳ đại hội, đặc biệt là Đại hội Đảng XIII?

Về khoa học cũng vậy, khoa học là một nguyên tắc của văn hóa. Trong văn hóa tồn tại 3 nhân tố: chân - thiện - mỹ là ba giá trị rất quan trọng. Tôi nhớ một câu nói của một nhà văn hóa nước ngoài: “Đứng trước sức mạnh của một kẻ cường quyền chúng ta ngẩng cao đầu, trước sức mạnh của một trí tuệ uyên bác chúng ta cúi đầu, trước sức mạnh của trái tim nhân ái chúng ta quỳ gối”.

Sức mạnh trí tuệ là chân, sức mạnh đạo đức là thiện, văn hóa còn có mỹ nữa là nghệ thuật. Nguyên tắc này tồn tại trong bất kỳ nền văn hóa nào của các quốc gia. Trong quá trình đổi mới hiện nay, vấn đề dân tộc ngày càng trở nên quan trọng. Chúng ta thử nghĩ xem, có một dân tộc nào nhỏ bé như dân tộc chúng ta mà số di sản văn hóa vật thể, phi vật thể lớn như vậy. Ý thức phát huy, khai thác giá trị di sản đó là ý thức dân tộc. Nếu không có ý thức dân tộc thì chúng ta đã lãng quên di sản đó từ lâu rồi.

Trong xu thế hiện nay, vấn đề dân tộc trong văn hóa là vấn đề đang được lưu ý. Vấn đề dân tộc hiện nay không chỉ là bảo tồn, phát huy giá trị đã có mà còn phải biết tiếp thu các giá trị văn hóa ngoại lai và cần có sức đề kháng với các giá trị bên ngoài. Tôi e rằng đang có một sự xâm lăng về văn hóa đang diễn ra âm thầm trên toàn cầu. Cho nên chúng ta cần phải cảnh giác, thận trọng.

Còn về khoa học thì sao? Khoa học luôn quan trọng, nhưng đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khi chúng ta tiếp cận với công nghệ thì chúng ta không thể coi thường lĩnh vực này. Trong khoa học có khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn. Khoa học tự nhiên rất quan trọng, có tác động trực tiếp đến đời sống của chúng ta, trực tiếp tạo ra của cải vật chất ngay lập tức. Còn khoa học xã hội nhân văn thì sao? Tôi e rằng hiện nay có một xu hướng coi trọng khoa học tự nhiên mà coi nhẹ khoa học xã hội nhân văn. Điều này nếu diễn ra thì sẽ có những tác hại khôn lường, bởi vì sứ mạng của khoa học là phục vụ con người. Con người ở đây không chỉ là “con” mà là người. Ví dụ như công nghệ trí tuệ nhân tạo nếu không điều khiển tốt sẽ tạo ra nhiều hậu quả nghiêm trọng, trái lương tâm con người

Từ thế kỷ 18, một nhà bác học lớn của nước Pháp là Pascal đã từng nói: “Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ làm bại hoại tâm hồn mà thôi”. Vấn đề khoa học nhân văn hiện nay cũng vậy. Khoa học nhân văn là khoa học làm người. Nếu không biết làm người thì làm khoa học để làm gì, làm ra của cải vật chất để làm gì. Cho nên cần phải cân bằng mối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội và nhân văn.

Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức trong xây dựng nền văn hoá dân tộc và hiện đại

MC: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển và phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới... Đây được xem là vấn đề cốt lõi của mọi cuộc cách mạng. Và rằng nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

Con người hoàn thiện là con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao... Trong đó, vấn đề trí lực, năng lực thực tiễn, tri thức phải được nâng cao theo kịp với cuộc cách mạng công nghệ mới và sự thay đối nhanh chóng của xã hội.

MC: Câu hỏi đầu tiên của phần này, chúng ta đi sâu vào trí lực và tri thức là hai khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Có những điểm đồng nhất và có những điểm khác biệt nhưng rất quan trong trong việc định hướng nâng cao chất lượng nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Vấn đề chuyên sâu có tính triết học này xin được hỏi nhà báo, TS Nhị Lê. Thưa ông, hai khái niệm này có mối liên hệ như thế nào? Và nó có tác động thế nào trong chiến lược phát triển văn hóa và con người Việt Nam? Đâu là điểm mới nổi bật trong quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về văn hóa tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 - hội nghị văn hóa có quy mô lớn nhất trong lịch sử và diễn ra sau 75 năm kể từ Hội nghị lần thứ nhất, nằm trong chuỗi các hội nghị lần đầu tiên được tổ chức nhằm quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khơi dậy khát vọng toàn dân tộc, mở ra bước ngoặt mới trong vấn đề chấn hưng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam?

TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản:

Nhân nói về con người, tôi xin mở rộng ra là văn hóa trong chính trị, văn hóa trong kinh tế, văn hóa trong chính văn hóa. Nếu phát triển kinh tế mà thiếu văn hóa, dứt khoát rơi vào thuyết định luật kinh tế, cá lớn nuốt cá bé. Lĩnh vực chính trị màGS. TS. Nhà giáo Nhân dân Trần Văn Bính, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ có nói, quyền lực giao cho người không xứng đáng, không khác gì thả rông con thú dữ ra xã hội. Nói về trí thức, người trí thức mà không có đạo đức thì chỉ nguyên vẹn sự tàn bạo. Ở đây có hai mối quan hệ song trùng: Văn hóa toàn dân và Những người tinh hoa. Trong đó quan trọng là người tri thức mà không có đạo đức thì tàn bạo, chúng ta thấy rõ mức độ nguy hại qua những cuộc đấu tranh thử lửa.

MC: Câu hỏi đầu tiên của phần này, chúng ta đi sâu vào trí lực và tri thức là hai khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Có những điểm đồng nhất và có những điểm khác biệt nhưng rất quan trong trong việc định hướng nâng cao chất lượng nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Muốn phát triển văn hóa dân tộc, có 2 nhiệm vụ: Thứ nhất, nâng cao trí lực toàn dân. Thứ hai, tập trung xây dựng đội ngũ tinh hoa dẫn dắt dân tộc. Nếu không nâng cao dân trí một cách ngang tầm cho Nhân dân thì không khác gì đẩy đại chúng trong văn hóa ra ngoài cuộc chơi về chính trị, kinh tế. Không đầu tư cho trí thức thì không mong gì đến sự hưng thịnh quốc gia cả.

Mệnh đề nổi tiếng của Thân Nhân Trung: Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Cụ Lê Quý Đôn cũng nói 5 nguy cơ đối với đất nước: Trẻ không trọng già, Trò không kính thầy, Binh kiêu tướng thoái, Tham nhũng tràn lan, Sĩ phu ngoảnh mặt. Nếu dân tộc phạm vào 1 trong 5, nguy cơ mất nước, suy tàn dân tộc hiện rõ.

Chức năng thiên khải của văn hóa được giải quyết khi toàn dân không mù chữ, không đứng ngoài kinh tế, chính trị, xã hội. Muốn đi dài, đi xa, bền vững, nhân văn thì không thể không coi trọng trí thức.

Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng hay nói, chúng ta không hình dung được, dân tộc này dù sông phía Bắc, dù biển phía Đông, nếu không dân cũng không có nghĩa gì. Bảy ngành nghệ thuật được cấu tạo nên bài phát biểu của Tổng Bí thư tại Hội nghị văn hóa toàn quốc tháng 11.2021, đó cũng là tích hợp và phát triển tư tưởng Chủ nghĩa Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, sâu hơn đó là nghệ thuật thể hiện đối xử với văn hóa. Trong một lần gặp gỡ với Tổng Bí thư tôi có nói, nếu làm được như Tổng Bí thư nói, thì người ta lại thấy quốc thể Việt Nam, quốc tín Việt Nam, quốc sỉ Việt Nam, và tầng sâu nhất người ta thấy lấp lánh 4 chữ "con người Việt Nam", "danh dự Việt Nam".

Với tâm khảm như thế, tôi nhìn bài phát biểu 7 loại vấn đề, Tổng Bí thư nhắc lại một trong 4 nhân tố làm nên xã hội Việt Nam. Phải đối đãi công bằng, ngang bằng kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Văn hóa là linh hồn xuyên thấm trong tất cả lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội – nhân văn. Kinh tế mà không nhân văn thì cá lớn nuốt cá bé, quần ngư tranh thực. Kinh tế không chính trị thì người ăn thịt người. Con người mà đối xử không văn hóa thì không có nhân tính. Cho nên văn hóa chính là làm cho mỗi người sống và hành động có tính người hơn.

Như tôi đã nói từ đầu Toạ đàm, có thể đạt được vị thế cường quốc về kinh tế 50 năm, nhưng để trở thành một dân tộc văn hóa, đạt vị thế cường quốc về văn hóa phải mất thậm chí hàng nghìn năm. Dân tộc đó tiêu vong nhưng còn văn hóa là còn mãi trong nhân gian. 

Giao tiếp dân tộc này với dân tộc kia, bề nổi là kinh tế nhưng bên sâu là văn hóa, quốc thể, quốc khí, quốc lực Việt Nam. Nếu kinh tế, chính trị là tảng băng nổi thì văn hóa chính là tầng chìm thực thể của nó. Dân tộc này, đất nước này, người ta biết, nhớ đến với tư cách là một dân tộc quốc gia trước hết là từ văn hóa.

MC: Câu hỏi đầu tiên của phần này, chúng ta đi sâu vào trí lực và tri thức là hai khái niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau. Có những điểm đồng nhất và có những điểm khác biệt nhưng rất quan trong trong việc định hướng nâng cao chất lượng nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

80 năm qua, mở đầu là Đề cương về Văn hóa Việt Nam, với hai người phát ngôn, mở đầu là Tổng Bí thư Trường Chinh, 80 năm sau, một bài tổng kết sự nghiệp phát triển văn hóa theo nghĩa rộng, dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, để thấy chúng ta có thể lãng quên nhiều lĩnh vực khác, nhưng lãng quên văn hóa sẽ đi đến chỗ tiêu vong.

Nền móng văn hóa Việt Nam, đặc biệt từ hai người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam, ở hai thời kỳ cách nhau 80 năm, để thấy sức mạnh: Việt Nam - văn hóa và văn hóa. Đó cũng là thách thức tương lai mà nếu chúng ta đánh mất văn hóa, coi nhẹ văn hóa, mà rường cột của nó nằm trong trăm triệu đồng bào, trong đó có những đội ngũ tinh hoa, nếu lãng quên,... thì không bàn gì được triết lý phát triển Việt Nam: Mạnh mẽ - Bền vững - Nhân văn.

MC: Vậy hệ giá trị và chuẩn mực con người văn hoá mới có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam... thưa PGS. TS Bùi Hoài Sơn?

PGS. TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục của Quốc hội:

Không phải đến Đại hội lần thứ XIII thì chúng ta mới bàn về câu chuyện hệ giá trị, bởi hệ giá trị rất quan trọng trong việc định hướng sự phát triển của quốc gia và từng cá nhân. Chính vì thế, việc quan tâm đến hệ giá trị luôn là một chủ đề xuyên suốt trong nhiều kỳ đại hội của Đảng.

Đến Đại hội lần thứ XIII, chúng ta thấy rằng bối cảnh đất nước lúc đó đang trong một giai đoạn hết sức là phức tạp. Bên cạnh tác động của nền kinh tế thị trường với quá trình toàn cầu hóa sâu sắc, mạnh mẽ thì còn tác động của các phương tiện truyền thông mới của cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, khiến cả xã hội ở trong một giai đoạn hết sức khá nhạy cảm.

<p><strong>MC</strong>: <em>Vậy hệ giá trị và chuẩn mực con người văn hoá mới có ý nghĩa như thế nào trong việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam... thưa PGS. TS Bùi Hoài Sơn?</em></p> -0

Sự nhạy cảm này cũng khiến con người ta bị lạc lối giữa bể thông tin, lạc lối trong lối sống, bị định hướng bởi quá nhiều lĩnh vực khác nhau và sự lãng tâm của con người được thể hiện qua nhiều biểu hiện cụ thể.

Ví dụ: bây giờ chúng ta rất khó tập trung để đọc một quyển sách; trong khi lại dễ dàng say mê với những dòng tin tức, những dòng Twitter, chia sẻ trên mạng xã hội. Nói như vậy, không phải là cái gì đó tiêu cực mà đơn giản chỉ nó khiến chúng ta trở nên hời hợt hơn, vô cảm hơn, không sâu sắc. Và điều này khiến chúng ta cần có định hướng nhất định.

Việc chúng ta xây dựng nên các hệ giá trị từ hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trở nên vô cùng cần thiết. Còn nhớ rằng thời điểm này năm ngoái, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tổ chức một hội thảo cấp quốc gia rất lớn bàn về chủ đề này và sự kiện khiến cho chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn, nghiêm túc hơn về việc phải bắt tay vào xây dựng các hệ giá trị.

Chúng ta cũng nhớ rằng, trong Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã gợi ý một số những hệ giá trị cơ bản và như thế nếu chúng ta tập trung vào việc xây dựng, quan tâm thì sẽ huy động được nguồn lực của đất nước cũng như tập trung được sự quan tâm của từng cá nhân. Các giải pháp này có thể đến từ chính trị, có thể đến từ kinh tế, từ lĩnh vực này, lĩnh vực kia nhưng quan trọng nhất vẫn phải là từ văn hóa và giáo dục. Trong Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và sau này được thể hiện rõ nét trong Luật Giáo dục, chúng ta cũng nhấn mạnh rằng, đây là mục tiêu của giáo dục là phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, có văn hóa, có sức khỏe hay thẩm mỹ và nghề nghiệp... Điều đó cho thấy chúng ta phải lựa chọn một số giá trị căn bản để từ đó huy động trí lực, huy động sức mạnh của giáo dục và đặc biệt là văn hóa. Và thông qua việc tập trung như thế chúng ta mới có thể huy động sức mạnh cho đất nước trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế vô cùng gay gắt.

Quốc gia nào không tập trung, không nỗ lực không có được sức mạnh nội sinh của mình bằng chính nguồn lực rất quan trọng là văn hóa và con người thì quốc gia đó sẽ nhanh chóng bị tụt hậu. Đó là ý nghĩa của việc cần phải hình thành nên các hệ giá trị và ý nghĩa của việc chúng ta tập trung nguồn lực tập trung giáo dục, tập trung văn hóa cho việc hình thành và triển khai các hệ giá trị này.

MC:Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế hợp tác phát triển và cũng là quá trình đấu tranh để bảo vệ lợi quốc gia. Trong đó, cuộc cách mạng công nghệ tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, sự hình thành xã hội số, nhà nước số, công dân số… sử dụng trí tuệ nhân tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh khoa học, công nghệ và giáo dục là nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình phát triển đất nước, vậy thưa PGS, TS Nguyễn Thế Kỷ, việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức đặt vị trí nào trong chiến lược phát triển văn hóa của Đảng? Và sẽ được giải quyết từng bước như thế nào?

PGS. TS Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; nguyên Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương:

Hiện nay, đất nước đang đứng trước bước phát triển rất lớn của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, trong đó nói đến trí tuệ nhân tạo, kinh tế số, văn hóa số, truyền thông số… rất nhiều lĩnh vực. Chuyển đổi số diễn ra trên tất cả các lĩnh vực, về đến nông thôn vẫn nghe tới chuyển đổi số.

Ví dụ, hôm qua tôi dự Chuyên đề “Nêu cao tính gương mẫu của cán bộ đảng viên theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh” ở Bắc Kạn, nối từ Hội trường tỉnh đến tận xã (gần 11.000 người tham dự)… Đây là thành tựu của công nghệ.

MC: Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là xu thế hợp tác phát triển và cũng là quá trình đấu tranh để bảo vệ lợi quốc gia. Trong đó, cuộc cách mạng công nghệ tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội, sự hình thành xã hội số, nhà nước số, công dân số… sử dụng trí tuệ nhân tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ. Trong bối cảnh khoa học, công nghệ và giáo dục là nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình phát triển đất nước, vậy thưa PGS, TS Nguyễn Thế Kỷ, việc nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri t

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 không có quốc gia nào đứng ngoài, để đưa đất nước đi nhanh, đi mạnh hơn hay có những bước “đi tắt đón đầu”. Làm sao để đào tạo nguồn nhân lực, trí thức con người Việt Nam? Tôi nghĩ, trước khi bồi dưỡng, đào tạo, chúng ta phải trang bị tất cả mọi người đặc biệt giới trẻ thẩm chất văn hóa, bản lĩnh văn hóa…; hướng đến những giá trị cao đẹp của con người, của đất nước… Đây không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Giáo dục – Đào tạo, không chỉ của Bộ Khoa học – Công nghệ, hay Bộ Văn hóa, TT và DL mà của cả xã hội, cả hệ thống chính trị.

Ở giai đoạn này, phải có một định hướng như Đề cương Văn hóa năm 1943. Lúc đó đất nước tình trạng nguy nan, rất khó khăn nhưng bây giờ nhiều thời cơ thì phải có bước trang bị con người tầm nhìn, bản lĩnh văn hóa để đi vào hội nhập mạnh mẽ toàn diện với thế giới, nhưng không đánh mất dân tộc, không lợi dụng bước tiến khoa học – công nghệ để phản văn hóa.

Tôi thấy hiện nay, công việc của Quốc hội nhiều, nặng và dồn dập. Lâu nay cường độ làm việc của Quốc hội nhiều cuộc họp, có những cuộc họp bất thường đến mức trở nên bình thường vì cần thiết.

Triển khai đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước trong bước phát triển mới. Hợp tác quốc tế như thế nào? Muốn hợp tác gì hay nhìn đến tầm cao nào thì đều bắt đầu từ nền đất nước đó, văn hóa dân tộc đó. Ví dụ, mặc dù so sánh hơi khập khiễng nhưng trong kinh tế, muốn nhập khẩu thì phải làm tăng được các giá trị về xuất khẩu… Trong văn hóa cũng vậy, trên cơ sở nền tảng của văn hóa dân tộc, tri thức của dân tộc, tầm cao trí tuệ của dân tộc để bắt tay với thế giới (tư thế ngẩng cao đầu, sòng phẳng…). Nếu như hổng vấn đề tầm nhìn, quan điểm thì chắc chắn sẽ phải trả giá. Lúc đó mặt trái của khoa học – công nghệ sẽ tác động mạnh, làm hư giới trẻ, quên đi những giá trị nhân văn của con người.

Buổi Tọa đàm chọn chủ đề “Nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức cho con người Việt Nam trong thực hiện cách mạng văn hóa Việt Nam theo tinh thần “Đề cương văn hóa Việt Nam” năm 1943, tính kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử” là rất hay, đặt ra nhiều vấn đề. Quốc hội, Chính phủ và Nhà nước triển khai thực hiện như thế nào? Bằng các cơ chế, chính sách, nguồn lực đạo tạo con người như thế nào để thích hợp với thời kỳ mới? Các Ban ngành đoàn thể, các địa phương làm như thế nào để có những bước đi vững chắc và không bị choáng ngợp với thành tựu khoa học – công nghệ bên ngoài vào… Chủ động, tự tin để đón nhận và làm chủ, làm cho văn hóa của đất nước, tầm trí tuệ của dân tộc cao lên một cách vững chắc.

MC: Xây dựng ra chính sách đã khó, đưa chính sách vào cuộc sống khó khăn muôn phần. Và trong lĩnh vực văn hóa cũng vậy. Vấn đề chiến lược, nghị quyết đã có, nhiều điểm đã rõ. Vậy đâu là giải pháp đưa các nghị quyết về văn hóa, cụ thể là quan điểm, định hướng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta về văn hóa khẩn trương đi vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất? Và vấn đề nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức sẽ được quan tâm giải quyết như thế nào? Đâu là chìa khoá để thành công? Xin Thứ trưởng Tạ Quang Đông chia sẻ?

PGS. TS Tạ Quang Đông, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

Qua Đại hội lần thứ XIII của Đảng thì chúng ta thấy văn hóa có sức mạnh, tầm quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đầu tiên, để các giải pháp đi vào thực tiễn là tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ tri thức trong giai đoạn hiện nay cũng như các thể chế về chính sách dành cho văn hóa.

Thứ hai, phải tiếp tục nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị xã hội về vị trí, vai trò của văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tin cậy của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững của đất nước và được đặt ngang hàng với chính trị và kinh tế.

MC: Xây dựng ra chính sách đã khó, đưa chính sách vào cuộc sống khó khăn muôn phần. Và trong lĩnh vực văn hóa cũng vậy. Vấn đề chiến lược, nghị quyết đã có, nhiều điểm đã rõ. Vậy đâu là giải pháp đưa các nghị quyết về văn hóa, cụ thể là quan điểm, định hướng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta về văn hóa khẩn trương đi vào cuộc sống một cách hiệu quả nhất? Và vấn đề nâng cao trí lực, bồi dưỡng tri thức sẽ được quan tâm giải quyết như thế nào? Đâu là chìa khoá để thành công? Xin Thứ t

Trong thời gian vừa qua, sau Đại hội Đảng lần thứ XIII, chúng ta đã triển khai rất nhiều các hội nghị đặc biệt là Hội nghị văn hóa toàn quốc là hội nghị rất lớn và quan trọng. Trong đó, Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề ra 6 nhiệm vụ và 4 giải pháp cho ngành văn hóa, đó cũng là những cột mốc soi đường để chúng ta thực hiện những nhiệm vụ một cách cụ thể. Sau đó, Ban Tuyên giáo Trung ương cũng đã tổ chức rất thành công Hội nghị để xem lại và triển khai để tìm ra được xây dựng hệ giá trị quốc gia, các hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người và hệ giá trị của gia đình. Ủy ban Văn hóa, Giáo dục cũng đã tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2022 tại Bắc Ninh, trong đó đề cập đến những vấn đề cần tháo gỡ, những điểm nghẽn trong thể chế chính sách và làm sao huy động được tất cả nguồn lực của xã hội, tăng cường đầu tư cho văn hóa. Đó là những vấn đề tôi thấy rất hiệu quả, đã được triển khai đồng bộ giữa các bộ, ban, ngành. Cũng như hôm nay Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức tọa đàm này đóng vai trò giải thích, tuyên truyền chính sách để các ngành, các cấp và toàn dân nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của văn hóa trong sự phát triển của xã hội.

Thứ ba, chúng ta cũng đã có rất nhiều chiến lược về văn hóa, về văn hóa đối ngoại, về các Nghị quyết như Nghị quyết 33. Đó là những chiến lược rất cụ thể đã có để ngành văn hóa phát triển mạnh mẽ hơn. Bên cạnh đó, cần tiếp tục thể chế các đường lối quan điểm này và tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, không để các khoảng trống trong khung khổ pháp lý, hướng tới các lĩnh vực đều có văn bản pháp quy điều chỉnh, đặc biệt là các vấn đề về chính sách đặc thù cho khối văn hóa, nghệ thuật.

Thứ tư, trong quá trình xây dựng, phát triển ngành, cần sự phối hợp, tương quan chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành, địa phương và coi là một nhiệm vụ thường xuyên. Hiện nay Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã phối hợp rất chặt chẽ với các bộ, ban, ngành để tổ chức các Hội nghị bàn về văn hóa, về cách ứng xử văn hóa, triển khai những mục tiêu để phát triển văn hóa tại các bộ, ngành, địa phương. Qua hơn 1 năm triển khai các ý kiến kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, có một sự chuyển biến rất mạnh mẽ ở các địa phương cũng như bộ, ban, ngành trong việc đầu tư cho văn hóa cũng như phát triển đội ngũ những người làm văn hóa.

Đối với ngành văn hóa thì việc tiếp tục nâng cao chiến lược bồi dưỡng tri thức cũng được các bộ, ngành đặc biệt là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quan tâm. Việc xây dựng đội ngũ viên chức, công chức, người lao động của ngành phải thực sự am hiểu về lĩnh vực và đến năm 2030 chúng tôi đặt ra có 100% đội ngũ giảng viên, nghiên cứu viên về văn hóa nghệ thuật trong các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu đạt chuẩn theo quy định và hội nhập quốc tế. Tôi cũng muốn nhấn mạnh thêm là Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng luôn đưa ra những mục tiêu như trong ngành phải có khát vọng về cống hiến và quyết tâm xây dựng ngành. Đây là “gốc” để hướng tới việc mỗi cán bộ văn hóa là tiêu biểu cho lối sống về văn hóa. Chúng tôi cũng đặt ra vấn đề hàng đầu là tiếp tục phong trào học tập, làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, chúng tôi cũng có Đề án xây dựng đội ngũ trí thức ngành thể thao, du lịch đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2035; trong đó đặt ra rà soát, hoàn thiện các cơ chế chính sách tuyển dụng nhân tài, những người có năng khiếu đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng và các chính sách liên quan đến phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ trong cả nước, làm cơ sở cho công tác quy hoạch và định hướng chiến lược của ngành; triển khai số hóa trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật; tiếp tục triển khai các đề án đào tạo, bồi dưỡng nhân lực trong nước cũng như ở nước ngoài, các kế hoạch đào tạo, bổ sung, nâng cao trình độ đội ngũ trí thức hiện đang có. Đó là những việc mà ngành văn hóa, thể thao, du lịch trong thời gian tới sẽ hướng đến để nâng cao trí lực, xây dựng đội ngũ trí thức đặc biệt, những người làm công tác văn hóa trong thời kỳ mới.

Thưa quý vị đại biểu khách quý!

Trong thời gian hạn hẹp, chúng ta đề cập đến vấn đề rông lớn và sâu sắc dưới các góc nhìn khác nhau của nhà khoa học, nhà quản lý, nhà lập pháp, nhà báo… Đây là vấn đề mỗi lần bàn lại thêm một lần làm sáng tỏ thêm giá trị thực tiễn và lý luận từ Đề cương về văn hoá năm 1943. Xin được ghi lại và chuyển tải đến cử tri cả nước, góp ý cùng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và hiện đại.

Một lần nữa, trân trọng cảm ơn các vị khách quý đã tham gia Tọa đàm ngày hôm nay và mong được gặp lại trong lần đối thoại lần sau.

Xin trân trọng cảm ơn!

Sự kiện nổi bật

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII
Sự kiện nổi bật

Quyết tâm cao nhất, nỗ lực lớn nhất, hành động quyết liệt, bảo đảm đạt và phấn đấu vượt các mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra

Lời Tòa soạn: Sáng nay, 18.9, tại trụ sở Trung ương Đảng, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã khai mạc trọng thể Hội nghị lần thứ 10. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài phát biểu khai mạc Hội nghị.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Xây dựng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu về công tác xây dựng Đảng
Sự kiện nổi bật

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm: Xây dựng Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh trở thành hình mẫu về công tác xây dựng Đảng

Chiều 17.9, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 75 năm ngày truyền thống của Học viện (9.1949 - 9.2024) và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất; trực tuyến tới các điểm cầu của các Học viện trực thuộc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính không hài lòng đối với một số ngành, địa phương trả lại vốn đầu tư công
Chính trị

Thủ tướng Phạm Minh Chính không hài lòng đối với một số ngành, địa phương trả lại vốn đầu tư công

Chiều 17.9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải (Ban Chỉ đạo) chủ trì họp phiên thứ 14 của Ban Chỉ đạo nhằm rà soát các công việc sau phiên họp lần thứ 13 và bàn các giải pháp, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy tiến độ các công trình, dự án.

Chủ tịch Thượng viện Czech, Chủ tịch danh dự Hạ viện Bỉ chia buồn về thiệt hại do bão số 3 gây ra
Chính trị

Chủ tịch Thượng viện Czech, Chủ tịch danh dự Hạ viện Bỉ chia buồn về thiệt hại do bão số 3 gây ra

Trước những thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 (bão Yagi) gây ra tại các tỉnh miền Bắc của Việt Nam, Chủ tịch Thượng viện Cộng hòa Czech Milos Vystrcil và Quốc vụ khanh, Chủ tịch danh dự Hạ viện Bỉ Andre Flahaut đã gửi thư chia buồn tới Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Đỗ Thị Lan thăm, tặng quà người dân bị thiệt hại sau mưa bão
Sự kiện nổi bật

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Đỗ Thị Lan thăm, tặng quà người dân bị thiệt hại sau mưa bão

Ngày 16.9, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Đỗ Thị Lan, ĐBQH tỉnh Quảng Ninh đã đi thăm hỏi, động viên, tặng quà hỗ trợ một số hộ gia đình, người lao động, đoàn viên công đoàn bị thiệt hại do cơn bão số 3 và mưa lũ sau bão trên địa bàn thị xã Đông Triều, TP Hạ Long (Quảng Ninh).

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp về công tác Biển Đông - hải đảo
Chính trị

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì cuộc họp về công tác Biển Đông - hải đảo

Ngày 16.9, tại Trụ sở Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã chủ trì cuộc họp với lãnh đạo các bộ, ban, ngành liên quan, đi sâu đánh giá tình hình triển khai Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và các nội dung liên quan trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn chủ trì kiểm tra công tác chuẩn bị Lễ xuất quân
Xã hội

Sẵn sàng cho lễ xuất quân

Sáng ngày 16.9, tại Hà Nội, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Tổ phó Tổ công tác liên ngành, Phó trưởng Ban Chỉ đạo Bộ Quốc phòng về tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc, Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, đã chủ trì kiểm tra công tác chuẩn bị Lễ xuất quân Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 6 (BVDC2.6) và Đội Công binh số 3 (ĐCB3) lên đường làm nhiệm vụ tại Liên Hợp Quốc.

Thủ tướng Phạm Minh Chính: 6 điểm tựa Việt Nam giúp vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách
Sự kiện nổi bật

Thủ tướng Phạm Minh Chính: 6 điểm tựa Việt Nam giúp vượt qua mọi khó khăn, gian nan, thử thách

Tối 15.9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã dự Chương trình truyền hình đặc biệt 'Điểm tựa Việt Nam' do Đài truyền hình Việt Nam tổ chức, phát sóng trực tiếp trên kênh VTV1, hướng đến người dân vùng lũ lụt, sạt lở đất phải gánh chịu hậu quả do bão số 3 (Yagi) gây ra nhằm lan tỏa tình cảm, sự sẻ chia với những mất mát của Nhân dân do hậu quả của bão lũ, động viên tinh thần kiên cường khắc phục khó khăn, sáng tạo và dũng cảm vì mục tiêu chung.

Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng trao hỗ trợ tỉnh Yên Bái 1,5 tỷ đồng để khắc phục hậu quả thiên tai
Chính trị

Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng thăm, động viên người dân vùng lũ Yên Bái

Ngày 15.9, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng dẫn đầu đoàn công tác đã đến thăm, động viên người dân tỉnh Yên Bái bị ảnh hưởng, thiệt hại do bão số 3.

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về khắc phục hậu quả bão số 3
Chính trị

Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị trực tuyến về khắc phục hậu quả bão số 3

Sáng 15.9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ với các địa phương bị ảnh hưởng do cơn bão số 3 về giải pháp khẩn trương khắc phục hậu quả, hỗ trợ người dân, doanh nghiệp ổn định đời sống, khôi phục hoạt động sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Thắng thăm hỏi, động viên các đơn vị, người dân bị ảnh hưởng do bão số 3 tại Quảng Ninh
Chính trị

Ủy viên Bộ Chính trị Nguyễn Xuân Thắng thăm hỏi, động viên các đơn vị, người dân bị ảnh hưởng do bão số 3 tại Quảng Ninh

Ngày 14.9, Đoàn công tác do Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Nguyễn Xuân Thắng, ĐBQH tỉnh Quảng Ninh làm Trưởng đoàn đã tới thăm, tặng quà một số đơn vị, hộ dân bị ảnh hưởng, thiệt hại do bão số 3 (YAGI) tại thị xã Quảng Yên và TP. Hạ Long.

Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa làm việc với tỉnh Sơn La về khắc phục hậu quả thiên tai
Chính trị

Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa làm việc với tỉnh Sơn La về khắc phục hậu quả thiên tai

Ngày 14.9, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa và Đoàn công tác đã đến kiểm tra tình hình thiệt hại, công tác khắc phục hậu quả do tác động của hoàn lưu bão số 3; thăm hỏi, động viên, tặng quà các hộ dân bị thiệt hại do mưa lũ và học sinh có hoàn cảnh khó khăn ở xã Ngọc Chiến, huyện Mường La; làm việc với tỉnh Sơn La về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai.

Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú thăm, động viên, tặng quà nhân dân vùng lũ tại Bắc Ninh
Chính trị

Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú thăm, động viên, tặng quà nhân dân vùng lũ tại Bắc Ninh

Sáng 14.9, tại thôn Tân Tiến, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trần Cẩm Tú đã đến thăm, động viên tặng quà Nhân dân tỉnh Bắc Ninh trong vùng lũ bị ảnh hưởng bởi bão số 3. Cùng đi có Bí thư Tỉnh ủy Bắc Ninh Nguyễn Anh Tuấn; Chủ tịch UBND tỉnh Vương Quốc Tuấn.