Sáng 17.5, Tạp chí Nhà Đầu tư tổ chức Hội thảo “Vấn đề xử lý nợ xấu trong Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi)”.
Gia tăng tỷ lệ nợ xấu
Mặc dù, việc xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42 của Quốc hội đã đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng trước những diễn biến bất lợi của tình hình kinh tế, chính trị thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, khả năng thanh toán của nhiều doanh nghiệp suy giảm, tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng.
Theo báo cáo của NHNN, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn hệ thống đến cuối tháng 2.2023 đã lên tới 2,91%, so với mức 2% cuối năm 2022 và gần gấp đôi cuối năm 2021.
Trong khi đó, Quyết định số 689/QĐ-TTg ngày 8.6.2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025” đã đề ra mục tiêu: Đẩy mạnh xử lý nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng, ngăn ngừa, hạn chế tối đa nợ xấu mới phát sinh, phấn đấu đến cuối năm 2025, tỷ lệ nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD), nợ xấu đã bán cho Công ty quản lý tài sản (VAMC) chưa được xử lý, thu hồi và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu ở mức dưới 3%.
Để không tạo khoảng trống pháp lý khi Nghị quyết 42 của Quốc hội hết hiệu lực vào ngày 31.12.2023, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo Luật Các TCTD (sửa đổi) để trình Quốc hội cho ý kiến. Theo đó, đã bổ sung thêm 1 chương quy định về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm.
Cụ thể, chương XI trong dự thảo Luật sửa đổi gồm 9 điều liên quan đến các nội dung: khái niệm nợ xấu; bán nợ xấu và tài sản bảo đảm; mua, bán nợ xấu của tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu; thủ tục thu giữ tài sản bảo đảm; mua, bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai; kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm; hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, vụ việc vi phạm hành chính; và chuyển nhượng tài sản bảo đảm.
Việc bổ sung các quy định này nhận được sự ủng hộ của các ngân hàng và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đối với nội dung của các quy định cụ thể, vẫn còn những ý kiến khác nhau.
Ngoài ra, nhiều ngân hàng và doanh nghiệp tỏ ra băn khoăn về việc một số nội dung của Nghị quyết 42 đã không được đưa vào dự thảo Luật TCTD như: xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên, phân bổ lãi dự thu, quy định về áp dụng thủ tục xét xử rút gọn…
Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng (VNBA) Nguyễn Quốc Hùng cho biết, thực trạng nợ xấu của các TCTD hiện nay rất đáng lo ngại, khả năng hấp thụ vốn thấp, dẫn đến tín dụng tăng trưởng chậm. Chất lượng tài sản suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu của NHTM gặp nhiều khó khăn. Việc bán tài sản bảo đảm, đặc biệt là các khoản nợ lớn cần tổ chức bán nợ theo giá thị trường khó thực hiện trong điều kiện thị trường bất động sản đóng băng.
Ông Hùng cũng cho rằng, việc xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ trên thực tế gặp nhiều vướng mắc; Hành lang pháp lý cho hoạt động xử lý nợ còn chưa đồng bộ, thống nhất; Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định pháp luật khác.
“Một số doanh nghiệp cho biết họ đã hết nguồn lực, điều này dẫn đến ngân hàng gặp khó khi thu hồi các khoản nợ. Tỷ lệ nợ xấu theo tôi thời gian tới sẽ tiếp tục tăng”, Tổng Thư ký VNBA đánh giá.
Còn nhiều rào cản, vướng mắc trong xử lý nợ xấu
Ủy viên Thường trực Ủy ban Kinh tế Phan Đức Hiếu cho rằng cần có quy định đặc biệt về xử lý nợ xấu và cần cơ chế gia tăng hiệu quả xử lý vấn đề. Các chuyên gia cũng cần làm rõ bản chất xử lý nợ xấu, đó là xử lý tài sản đảm bảo cho các khoản nợ, nhưng không nên giới hạn ở chỉ mỗi bất động sản mà phải mở rộng hơn nữa. Ông Hiếu mong muốn, Luật sẽ tính đến lợi ích chủ nợ, người vay nợ, tránh tình trạng bảo vệ chủ nợ nhưng ảnh hưởng đến người đi vay nợ, điều này cần lý giải đầy đủ. Cần tính toán tránh việc lạm dụng các quy định xử lý nợ xấu, tránh nguyên nhân chủ quan và khách quan, nên tính toán tạo ra lợi ích công bằng.
Giám đốc Khối quản lý rủi ro Ngân hàng TMCP Nam Á Huỳnh Thanh Phong cho rằng cần mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng, không chỉ dừng lại ở các khoản nợ xấu mà áp dụng cho cả các khoản nợ nhóm 2 nhưng thuộc trường hợp phải thu hồi nợ trước hạn nhằm giảm rủi ro cho TCTD.
Trong khi đó, Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển kinh doanh, TS. Lê Xuân Nghĩa cho rằng, Luật nên có quy định rõ ràng, giao ngân hàng thương mại tự chủ trong thu giữ, phát mại tài sản bảo đảm.
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp chế Ngân hàng Nhà nước Phạm Thanh Ngọc cho rằng, Nghị quyết 42 chỉ quy định quyền xử lý tài sản đảm bảo, phạm vi tranh chấp rộng và tranh chấp theo hợp đồng tín dụng, sẽ liên quan đến nhiều bên nên tòa án cần nhiều thời gian để xác minh, thực hiện các quy trình tố tụng. Nghị quyết 42 quy định khi áp dụng thủ tục rút gọn cần theo quy định pháp luật hiện hành nhưng trên thực tế hiếm khi có vụ việc có thể đáp ứng các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn, bởi vì khi giải quyết tranh chấp thì các bên không có thiện chí thừa nhận các thỏa thuận, khi ra đến tòa kể cả khi đáp ứng điều kiện, chỉ có 1 tình tiết không đáp ứng thì sẽ chuyển ngay sang thủ tục thông thường,