Hơn 1 triệu tỷ đồng “vốn chết” là điểm nghẽn của nền kinh tế
Tại Tọa đàm “Tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ về xử lý nợ xấu” do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 21.4, Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nhớ lại thời điểm trước khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết 42).
Khi đó, do thiếu hành lang pháp lý nên việc thu hồi nợ xấu của hệ thống ngân hàng rất khó khăn, tỷ lệ nợ xấu lên tới trên 10%. Tuy nhiên, tình hình đã thay đổi sau khi Nghị quyết 42 được ban hành và có hiệu lực từ 15.8.2017. Với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó Bộ Công an đã ban hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo công an các địa phương phối hợp ngân hàng, đã giúp công tác xử lý nợ xấu đạt kết quả tích cực.
Ông Hùng dẫn số liệu, tính từ tháng 8.2017 đến cuối năm 2023, tổng số nợ xấu được xử lý khoảng 445 nghìn tỷ đồng, trong đó nợ xử lý mà khách hàng trả nợ là 161 nghìn tỷ đồng, xử lý tài sản bảo đảm 93 nghìn tỷ đồng - chiếm hơn 20% trong tổng số nợ đã xử lý, trong đó chỉ có 10% là ngân hàng tiến hành thu giữ và có phát mại theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật. Điều quan trọng hơn là ý thức, trách nhiệm của người đi vay trong việc trả nợ đã nâng lên. Trước đây, nợ khách hàng tự trả bình quân chỉ khoảng 20%, sau khi Nghị quyết 42 có hiệu lực đã tăng lên 36%.

Tuy nhiên, Nghị quyết 42 đã kết thúc sứ mệnh vào ngày 31.12.2023. Từ đó đến nay, việc xử lý nợ xấu bộc lộ nhiều vấn đề. Ông Nguyễn Quốc Hùng dẫn chứng, trong thời gian đầu khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực, tổng nợ xấu vào khoảng 4,55%, nếu tính cả nợ tiềm ẩn là trên 6%. Đến 31.12.2024, tỷ lệ nợ xấu khoảng 5,46%, nhưng số tiền lên tới hơn 1 triệu tỷ đồng. Hai tháng đầu năm nay, nợ xấu tăng thêm 34 nghìn tỷ đồng. Tổng số nợ xấu hiện nay lớn hơn so với giai đoạn triển khai Nghị quyết 42.
Đáng chú ý, ông Hùng cho biết, sau khi Nghị quyết 42 hết hiệu lực thì ý thức trả nợ của khách hàng không những "như cũ", mà thậm chí còn kém hơn, tinh vi hơn. Có những khách hàng tìm mọi cách để không bàn giao tài sản, thậm chí không trả lãi, phải tranh chấp ra tòa.
Giám đốc Khu vực Nam Sông hồng, Ngân hàng Eximbank Hoàng Hải Vương cho biết, các ngân hàng phải trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu. Điều này ảnh hưởng ngay tới lợi nhuận nên ngân hàng phải huy động và cho vay với lãi suất cao hơn. "Nếu có cơ chế giải quyết nợ xấu hiệu quả sẽ giúp khơi thông nguồn lực này, qua đó giúp ngân hàng giảm lãi suất, tăng trưởng tín dụng phục vụ cho tăng trưởng hai con số", ông Vương nói.
Ở góc độ chuyên gia kinh tế, TS. Lê Duy Bình, Giám đốc điều hành Economica Việt Nam, tỏ ra sốt ruột với con số hơn 1 triệu tỷ đồng nợ xấu, tương đương khoảng 40 tỷ USD. Ông nhấn mạnh, đây là con số rất lớn và rất cần trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang nỗ lực cho mục tiêu tăng trưởng hai con số. Nếu không xử lý được thì nguồn “vốn chết” này chính là điểm nghẽn của nền kinh tế. Do vậy, cần sớm có giải pháp để xử lý vấn đề này. Nếu nợ xấu giảm xuống 2 - 3%, thay vì mức 6 - 7%, thì nguồn lực cho nền kinh tế sẽ tăng lên, các ngân hàng có điều kiện để giảm lãi vay và sự an toàn của hệ thống tài chính cũng sẽ được cải thiện hơn, ông Bình nhấn mạnh.
Cần cơ chế giám sát độc lập việc thu giữ tài sản bảo đảm
Tại tọa đàm, các đại biểu nhất trí cho rằng, cần đưa các quy định của Nghị quyết 42 đã phát huy hiệu quả trong thời gian thí điểm vào dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng.
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đề xuất luật hóa 3 nhóm chính sách tại Nghị quyết 42. Một là, các tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản bảo đảm trong trường hợp có thỏa thuận đồng ý giữa khách vay và tổ chức tín dụng. Hai là, tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu chỉ bị kê biên trong trường hợp thi hành bản án, quyết định về cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe hoặc được sự đồng ý của các tổ chức tín dụng; Ba là, đối với tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, sau khi hoàn tất thủ tục xác nhận chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý và thi hành án thì cơ quan tiến hành tố tụng hoàn trả vật chứng này cho các tổ chức tín dụng.
Cho rằng việc luật hóa 3 nội dung cơ bản là đủ và cần thiết, ông Nguyễn Quốc Hùng lưu ý, cần quy định hết sức cụ thể, đặc biệt là quyền thu giữ tài sản với các điều kiện, trình tự thủ tục rõ ràng, minh bạch, công khai, hiệu quả, bảo đảm hài hòa lợi ích các bên.
Tán thành ý kiến trên, Phó Tổng thư ký kiêm Trưởng ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Đậu Anh Tuấn bổ sung, nếu trao quyền thu giữ tài sản cho các tổ chức tín dụng thì điều quan trọng nhất là phải có thiết chế bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bên vay, đi kèm điều kiện rõ ràng về trình tự, thủ tục, không xâm phạm quyền tài sản của người dân, doanh nghiệp. “Nên có cơ chế giám sát độc lập; đồng thời cần có thời gian thông báo và quyền phản hồi của bên vay trong quá trình xử lý tài sản”, ông Tuấn đề xuất.
Cùng với đó, do tài sản bảo đảm liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau nên cần có hướng dẫn, quy định chi tiết để bảo đảm quyền lợi chính đáng của các bên liên quan. Đồng thời, dự thảo Luật nên quy định cụ thể về việc công khai xử lý nợ xấu như danh mục, quy trình, thời gian xử lý, giá trị thu hồi, phân chia… Việc minh bạch hóa sẽ ngăn ngừa tiêu cực, tạo niềm tin cho các bên liên quan.