Đổi mới sự phát triển lý luận - 35 năm nhìn lại và thách thức

Bài 3: Nắm lấy phương châm ổn định, đổi mới và phát triển nhân văn bền vững

TS. NHỊ LÊ - Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản

Thực tiễn ngày càng chứng minh tính đúng đắn luận điểm cơ bản của lý thuyết đổi mới: Phải giữ vững ổn định chính trị mới đổi mới xã hội được, ổn định chính trị trở thành một điều kiện tiên quyết của đổi mới và phát triển.

Đổi mới - phát triển - ổn định

Nếu trong các mối quan hệ lớn đặt ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), vấn đề “đổi mới, ổn định và phát triển” lúc này hơn lúc nào hết, cần được hành động dứt khoát: Đổi mới để phát triển và phát triển là thước đo của đổi mới và ổn định. Mặt khác, lý thuyết đổi mới cũng nhấn mạnh: phải tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về đời sống, việc làm..., xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi mới trong lĩnh vực chính trị trong tổng thể 10 mối quan hệ chiến lược: Từ tầm nhìn chiến lược tới chỉ đạo vĩ mô một cách chỉnh thể công cuộc đổi mới.

Như vậy, vấn đề ổn định chính trị là nét cơ bản làm nên chỉnh thể của lý thuyết đổi mới. Vấn đề này không chỉ đơn giản được rút ra từ bài học thất bại của công cuộc cải tổ ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, từ kinh nghiệm cải cách của Trung Quốc, Cuba mà nhìn rộng hơn, đó là xu thế quốc tế hiện nay nói chung và đó là thực tiễn của công cuộc đổi mới ở nước ta nói riêng.

Sẽ là ảo tưởng trong việc tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội nếu vấn đề ổn định chính trị không được coi trọng như là một điều kiện tiên quyết. Nhưng việc ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị sẽ hết sức khó khăn nếu thiếu sự bảo đảm bởi những tiền đề vật chất, với tư cách là nền tảng. Thoát ly sự tăng trưởng của kinh tế, đặt ra yêu cầu quá cao đối với việc phát triển xã hội là không thực tế, nhưng cũng hết sức sai lầm nếu chỉ coi trọng việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm giải quyết những vấn đề xã hội, bởi đó chính là một trong những nguồn gốc dẫn tới mất ổn định chính trị.

Đổi mới, phát triển, ổn định có mối liên hệ nội tại không thể chia cắt. Phát triển là mục đích, mà mấu chốt để giải quyết mọi vấn đề của xã hội nước ta là phải dựa vào sự phát triển của chính mình, nắm bắt thời cơ, tự phát triển, trên cơ sở phát triển kinh tế thúc đẩy sự phát triển hài hòa, toàn diện của xã hội. Đó là yêu cầu khách quan để từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội nước ta ở giai đoạn hiện nay. Đổi mới là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế và xã hội phát triển, là nhằm giải phóng và phát triển sức sản xuất, là biện pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn chủ yếu của xã hội, là sự tự hoàn thiện và phát triển của chủ nghĩa xã hội. Ổn định là tiền đề của phát triển và đổi mới; phát triển và đổi mới cần phải có môi trường chính trị và xã hội ổn định.

Chủ nghĩa xã hội Việt Nam chính là văn hóa

Lý thuyết đổi mới đã tiên liệu xa và xử lý hết sức khéo léo và sâu sắc mối liên hệ biện chứng của tổng thể 10 mối quan hệ chiến lược; đồng thời, dự liệu những chướng ngại cản trở việc giải quyết chúng từ nội dung tới những phương pháp nhằm đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta tiếp tục tiến lên một cách đúng hướng và vững chắc.

Đó là nét đặc sắc rất cơ bản của lý thuyết đổi mới. Chủ nghĩa xã hội chính là chủ nghĩa nhân đạo hoàn bị, như K.Marx nói.

Theo đó, quan điểm về nhân tố con người, nguồn lực con người, hạnh phúc của con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước là nét nổi bật, là một nhân tố chiếm vị trí rất quan trọng trong cấu trúc của lý thuyết đổi mới. Chỉ có trong quá trình phấn đấu vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, con người mới được đặt ở vị trí trân trọng đến vậy. Chính điều này đã làm sâu sắc, phong phú và đậm đà chất nhân văn của lý thuyết đổi mới.

Con người là vốn quý nhất, mọi của cải vật chất, mọi giá trị tinh thần đều do con người sáng tạo ra. Con người vừa là chủ thể vừa là động lực vừa là đối tượng phục vụ của công cuộc đổi mới. Chăm lo cho hạnh phúc, cho con người là mục tiêu cao cả, là nhiệm vụ trung tâm, trọng đại của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Đây là vấn đề hoàn toàn phù hợp với xu thế tiến bộ xã hội của thế giới trong thế kỷ XXI.

Phát triển nhân tố con người thực chất là khai thác mọi tiềm năng của con người, nó vừa là mục tiêu cuối cùng, vừa là động lực cơ bản để phát triển kinh tế và xã hội. Sự phát triển cá nhân của mỗi con người phải gắn chặt với sự phát triển của xã hội mới. Đến lượt mình, chế độ và xã hội cần tạo điều kiện và môi trường cho sự phát triển con người, trước hết là ưu tiên phát triển thể chất và tinh thần. Từng con người được tạo điều kiện phát triển tức là tiếp tục nhận thức chân giá trị của bản thân mình, tự giác thoát khỏi sự hạn chế và trói buộc vật chất tầm thường để vươn tới tương lai tươi sáng của đất nước.

Lý thuyết đổi mới không ngừng làm phong phú và sâu sắc hơn quan điểm vừa ra sức phát triển kinh tế, vừa quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, mà trong đó con người chiếm vị trí chủ thể và giữ vai trò là động lực nhằm tạo ra sự cân đối, hài hòa, đồng bộ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”. Kết hợp hữu cơ giữa "cái kinh tế" và "cái xã hội", giữa "hiệu quả kinh tế" và "hiệu quả xã hội" mới đưa xã hội tới ổn định và phồn vinh. Đó là hai mặt của vấn đề phát triển hiện đại. Quan điểm cơ bản này của lý thuyết đổi mới rất phù hợp với quan điểm tiến bộ của thế giới hiện đại. Bởi, sự hài hòa không chỉ là nhu cầu trong quan hệ giữa con người với con người, giữa các nước, các dân tộc với nhau mà còn là sự biểu hiện giữa con người với thiên nhiên, với cộng đồng, bảo đảm phù hợp với lợi ích cao nhất của cả dân tộc và nhân loại. Sự hài hòa này không chỉ là phương châm để giải quyết các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội giữa các dân tộc trong nước với nhau và đối với các nước khác, mà còn là biện pháp để điều hòa các mối quan hệ trong sản xuất, trong quá trình khai thác, bảo vệ thiên nhiên và các loại sinh thái khác.

Nói khái lược, mọi sự phát triển của công cuộc đổi mới xoay chung quanh con người, vì con người và cho con người chứ quyết không phải con người xoay chung quanh công cuộc đổi mới. Đó chính là mục tiêu nhân văn tối cao của công cuộc đổi mới. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam, có thể nói, chính là văn hóa.

Lý thuyết nhân văn trong đổi mới rõ ràng đã tiên lượng, đón gặp và hội nhập với xu thế nhân văn của thời đại chúng ta.

Mở cửa và hội nhập - một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thế giới hiện đại là thế giới của những mối quan hệ đan xen và phụ thuộc lẫn nhau. Mỗi quốc gia là một bộ phận của thế giới đầy biến động, là một khâu trong quá trình phân công và hợp tác quốc tế. Hợp tác trong phát triển là nhu cầu sinh tồn và phát triển của toàn bộ thế giới.

Chủ nghĩa xã hội không phải là một khu vực biệt lập, một thế giới khép kín, một quốc gia XHCN, càng không phải là một "ốc đảo" trong thế giới ấy. Càng tách rời chủ nghĩa xã hội ra khỏi thế giới hay thậm chí đem đối lập nó với thế giới hiện đại thì càng ít thấy diện mạo và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, lý thuyết đổi mới đã đặt vấn đề mở cửa và hội nhập trở thành một trong những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng là quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục tiến hành.

Nhưng mở cửa như thế nào và hội nhập ra sao? Lý thuyết đổi mới cũng đã lượng và tính những “hạn”, “độ” cần thiết và phù hợp đối với thực tế ở nước ta. Mở cửa, đổi mới nhưng phải giữ vững nguyên tắc XHCN. Đa phương hóa, đa dạng hóa trong các mối quan hệ quốc tế, nhưng nhất thiết không để chệch hướng XHCN. Hội nhập thông qua mở cửa nhưng không hòa tan, đánh mất chính mình trong đó. Đó là những vấn đề thuộc về nguyên tắc trong công cuộc mở cửa và hội nhập của chúng ta.

Nhìn khái lược, từ Đại hội IX của Đảng đến nay, quan điểm của Đảng về “toàn cầu hóa” và “hội nhập quốc tế” ngày càng đầy đủ và đóng vai trò hết sức quan trọng đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Từ nhận thức về “quốc tế hóa” đã phát triển thành nhận thức về “toàn cầu hóa kinh tế” và đi đến nhận thức về “toàn cầu hóa”. Trên cơ sở thực tiễn về “toàn cầu hóa”, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” và ngày nay là chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, “nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế”, “đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo và các lĩnh vực khác”. 

Đó là nét độc đáo, phương pháp mở của lý thuyết đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Nói khái lược, lý thuyết đổi mới là kết quả tất yếu của sự phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội và thực tiễn xây dựng xã hội XHCN mấy thập niên qua trên thế giới, trong điều kiện cụ thể của nước ta. Nói như dư luận quốc tế: “Đảng Cộng sản Việt Nam xuất phát từ thực tế của chính bản thân mình, không chịu bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài và nhất là không ảo tưởng vào một mô hình sẵn có nào”(19). Lý thuyết đổi mới bao hàm một hệ thống mở, với các luận điểm luôn phát triển. Rằng: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... mà chưa một ai đi qua”(20). Vì thế, mặt khác, việc nhận thức những đặc điểm của lý thuyết đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hoàn toàn không thể tách rời với thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và trào lưu XHCN thế giới. Cùng với thời gian và sự phát triển của thế giới hiện đại, tất cả sẽ được bổ sung, điều chỉnh ngày càng phong phú và sâu sắc hơn, tiếp tục dẫn đường đưa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng tiến lên vững chắc.

Có thể khẳng định, lý thuyết đổi mới XHCN là một đóng góp của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học hiện nay. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam là dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - chủ nghĩa xã hội là Đất nước độc lập, Tổ quốc phồn vinh, Nhân dân hạnh phúc - chủ nghĩa xã hội là đạo đức, là văn minh, là văn hóa.

_________

(19) A. V. I-va-nô-vích: “Minh chứng hùng hồn của chính sách đổi mới đúng đắn”, báo Nhân Dân, số ra ngày 20-9-2000, tr. 5.

(20) Lời chào mừng Đại hội IX Đảng  Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 53

Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045
Chính trị

Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045

Lời Tòa soạn: Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, chưa bao giờ như hiện nay, vấn đề xây dựng và thực thi triết lý phát triển Đất nước lại đặt ra và thách thức gay gắt, đòi hỏi Việt Nam một sự nỗ lực vượt bậc, toàn diện. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, tăng tốc và kỳ vọng phát triển vượt bậc. Do đó, việc kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045 trở nên vừa cấp bách vừa mang tầm chiến lược. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề: “Kiến tạo chủ thuyết phát triển Việt Nam trong tầm nhìn năm 2045”.

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn
Chính trị

Bài cuối: Biến quyết tâm thành hành động thực tiễn

Nghị quyết số 57 thể hiện cam kết mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước trong việc huy động sức mạnh toàn diện của hệ thống chính trị và xã hội nhằm tạo xung lực mới cho phát triển đất nước. Nghị quyết xác định đây là “cuộc cách mạng sâu sắc, toàn diện” cần được triển khai “quyết liệt, kiên trì, đồng bộ, nhất quán, lâu dài” với những giải pháp đột phá​. Nhiệm vụ hiện nay là biến quyết tâm đó thành hành động thực tiễn. Muốn vậy, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của toàn hệ thống chính trị và các thành phần kinh tế – xã hội, từ quyết tâm của người lãnh đạo cho đến nỗ lực của từng người dân.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP. Hồ Chí Minh Nguyễn Thanh Nghị phát biểu tại Hội thảo
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận - nền tảng cho mọi quyết sách

Nhấn mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận là nền tảng cho mọi quyết sách, tại Hội thảo khoa học quốc gia công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu đề nghị, cần đẩy mạnh gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, các cơ quan nghiên cứu cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương để triển khai các dự án thí điểm, từ đó rút ra bài học thực tiễn. Xây dựng mạng lưới học giả, nhà nghiên cứu hàng đầu nhằm phát triển các giải pháp lý luận sáng tạo.

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham dự phiên bế mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Xây dựng Đảng về văn hóa bắt đầu từ chính mỗi đảng viên

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Trong rất nhiều công việc, cấp bách 6 trọng sự. Trước tiên là bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lenin - “lực lượng tư tưởng hùng mạnh chỉ đạo Đảng chúng tôi, làm cho Đảng chúng tôi có thể trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc chúng tôi”(24) - Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định - một cách độc lập, sáng tạo nhằm cung cấp tri thức lý luận chính trị hết sức căn bản; đồng thời, đào tạo đảng viên một cách toàn diện về tri thức văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, tri thức lãnh đạo, quản lý, các kỹ năng “mềm”, năng lực công nghệ hiện đại… làm nền tảng xây dựng và phát triển văn hóa Đảng và văn hóa của đảng viên.

Toàn cảnh Phiên khai mạc Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 2: Dự báo những nhân tố phi văn hóa, phản văn hóa trong xây dựng, thực hành văn hóa của đảng viên

“Đảng ta không phải từ trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(22). Hơn nữa, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm đủ các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy, có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây, ngấm vào trong Đảng”(23).

Toàn cảnh Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII
Chính trị

Bài 1: Văn hóa Đảng - dòng chủ lưu và phát triển trong dòng chảy văn hóa dân tộc

Lời Tòa soạn: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa đảng viên không chỉ là yêu cầu cấp thiết, mà còn là nền tảng cho sự bền vững của Đảng và dân tộc. Báo Đại biểu Nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, Nguyên Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh – Phát triển văn hóa của đảng viên trong kỷ nguyên mới”.

toàn cảnh Hội thảo
Chính trị

Lý luận phải đồng hành, vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới

Tại Hội thảo quốc gia về Công tác lý luận của Đảng và những định hướng nghiên cứu quan trọng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, các đại biểu nhấn mạnh, cần tiếp tục quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn gắn với đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu một cách thiết thực, khoa học, hiệu quả, bảo đảm lý luận phải đồng hành với thực tiễn và vươn lên dẫn đường cho thực tiễn trong kỷ nguyên mới.

Hội nghị Trung ương 10 khóa XIII thảo luận nhiều vấn đề quan trọng chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng.
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Hết sức bền bỉ, công phu, tăng "sức đề kháng" để bảo vệ Đảng

Xây dựng văn hóa trong Đảng phải hết sức bền bỉ, công phu, thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp. Phải làm cho toàn Đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng về văn hóa Đảng, làm văn hóa Đảng trở thành những giá trị đặc trưng cho một đảng cách mạng chân chính và hiện đại, thành nhu cầu trong Đảng và của đảng viên. Phải làm cho Đảng tăng sức đề kháng để bảo vệ mình vì suy đến cùng sức mạnh của Đảng là sức mạnh về văn hóa.

Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Quốc hội và Cử tri

Bài 3: Xây dựng những cán bộ tốt, đảng viên tốt

Trong bối cảnh hiện nay, nước ta phải hướng đến xây dựng những cán bộ tốt hay cụ thể hơn, đó là những đảng viên tốt. Đảng chú trọng công tác cán bộ vừa là quyền hạn nhưng cũng là trách nhiệm trước sự tồn vong của Đảng, sự hưng thịnh của đất nước, của chế độ. Để đi tới được kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, thì Đảng phải quản trị cho được đội ngũ cán bộ thật sự toàn diện, nghiêm minh. Có được cán bộ, đảng viên tốt, văn hóa trong Đảng cũng tăng lên theo tỷ lệ thuận.

Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa.
Chính trị

Bài 2: Mỗi đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên là những tấm gương sáng

Để tiếp tục phát huy vai trò của cán bộ, đảng viên trong xây dựng văn hóa Đảng, Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9.5.2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới đã được ban hành. Có thể thấy, nếu mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu cơ quan, đơn vị hiểu rõ và tự giác thực hiện đầy đủ Quy định 144 - QĐ/TW, thì đây chính là công cụ hữu hiệu để ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, sự xói mòn về phẩm chất đạo đức, tệ tham ô, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng. Mỗi cán bộ, đảng viên tự nêu gương thì hàng triệu đảng viên sẽ là những tấm gương sáng, toàn Đảng sẽ thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với Nhân dân.

Toàn cảnh Hội thảo khoa học quốc gia những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng văn hóa trong Đảng trong giai đoạn mới ngày 15.1.2025
Chính trị

Bài 1: Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - hồn cốt của văn hóa trong Đảng

Lời Tòa soạn: Văn hóa trong Đảng là những giá trị văn hóa tốt đẹp mà Đảng ta đã lựa chọn, vun đắp, xây dựng, đổi mới và phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đó là những giá trị văn hóa được kết tinh từ truyền thống văn hóa dân tộc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; được tiếp thu, bổ sung những giá trị tinh hoa của văn hóa nhân loại trong thời đại mới, với nền tảng, hạt nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin; được khơi nguồn, soi sáng và dẫn dắt bởi tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; được kiểm nghiệm, khẳng định trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài về "Xây dựng văn hóa trong Đảng" với mong muốn cung cấp thêm thông tin về chủ đề đặc biệt quan trọng này.

Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Đình Khang phát biểu khai mạc Hội nghị quán triệt, triển khai Luật Công đoàn 2024. Ảnh: Hải Nguyễn
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài cuối: Minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc

Trước mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch và việc Việt Nam buộc phải cụ thể hóa quy định thành lập “Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp” theo cam kết quốc tế, tổ chức Công đoàn Việt Nam cần nâng cao vai trò, sứ mệnh của mình, để người lao động tin tưởng, gắn bó với “mái nhà chung” – nơi đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ. Đây là câu trả lời xác đáng, minh chứng hùng hồn nhất bác bỏ những luận điệu xuyên tạc.

Liên đoàn Lao động tỉnh Kiên Giang bàn giao nhà Mái ấm Công đoàn tặng đoàn viên công đoàn. Ảnh: Mỹ Linh
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 4: Vững tin trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Ngoài đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích đoàn viên, người lao động, Công đoàn Việt Nam luôn đi đầu phát động, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước; là chỗ dựa tinh thần vững chắc để công nhân, lao động tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, tin vào sứ mệnh của tổ chức Công đoàn Việt Nam. Qua đó, tăng sức đề kháng cho công nhân lao động trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

Người biểu tình đốt phá nhà ở thủ đô Dhaka, Bangladesh vào tháng 7.2024
Chính trị

Bài 3: Mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”

Việc các thế lực phản động trong nước, quốc tế câu kết với nhau, dùng con bài dân chủ, nhân quyền mà trực tiếp là con bài “Công đoàn độc lập” để ép Việt Nam phải đi theo quỹ đạo của chúng vạch ra thực chất là để thực hiện mưu đồ chiến lược “không đánh mà thắng”.

Biểu tình của Công đoàn Đoàn kết tại thành phố Kraków, Ba Lan, tháng 5.1989. Ảnh: Tư liệu
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 2: Làm xáo trộn niềm tin, gây mất đoàn kết

Thực chất con bài “Công đoàn độc lập” chỉ là cái vỏ. Mục đích của các thế lực thù địch trong, ngoài nước là làm cho niềm tin của công nhân, người lao động trong nước bị xáo trộn, gây mất đoàn kết để tiến tới mục tiêu xa hơn là tạo ra lực lượng đối lập, sử dụng phương thức đấu tranh bất bạo động, gây bất ổn chính trị tiến tới sử dụng “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” để lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những bài viết kêu gọi thành lập công đoàn độc lập đăng tải trên không gian mạng
Bảo vệ nền tảng tư tưởng Đảng

Bài 1: “Công đoàn độc lập” – “mũi tiến công số một”

Những năm gần đây, cụm từ “Công đoàn độc lập” được nhắc rất nhiều trên truyền thông đại chúng. Đặc biệt, từ cuối tháng 4, đầu tháng 5.2024, khi biết kế hoạch tổ chức Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Hội nghị thượng đỉnh Geneva về nhân quyền và dân chủ tổ chức, hàng loạt câu hỏi đặt ra là: tại sao lại có hiện tượng này; tổ chức nào và ai là những kẻ đứng sau; thực hiện nhằm mục đích gì trong khi tại Việt Nam có đầy đủ hệ thống công đoàn được pháp luật quy định?

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp với Thường trực các Tiểu ban chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng và Ban Chỉ đạo tổng kết 40 năm Đổi mới cho ý kiến về những chủ trương lớn vào Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng
Việt Nam với kỷ nguyên mới

Bài cuối: Phát triển nguyên tắc đổi mới và phát triển kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Đổi mới là một yêu cầu khách quan, một đòi hỏi của chính thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, nhằm nhận thức đúng hơn về CNXH, khắc phục những mặt trì trệ, đẩy nhanh quá trình xây dựng xã hội XHCN một cách hợp quy luật, đạt hiệu quả cao, củng cố và tăng cường CNXH.

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới
Chính trị

Bài 1: Mệnh lệnh phát triển đất nước và phát triển nguyên tắc kiến tạo kỷ nguyên mới

TS. Nhị Lê - Nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản

Lời Tòa soạn: Để góp phần tổng kết lý luận và thực tiễn 40 năm đổi mới, chuẩn bị Đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng, Báo Đại biểu Nhân dân giới thiệu loạt bài của TS. Nhị Lê, nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản với chủ đề “Mệnh lệnh đổi mới và phát triển nguyên tắc kỷ nguyên mới”.