Thu gọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết
Tranh chấp đất đai của hộ gia đình, cá nhân, tổ chức… thường rất phức tạp, chứng cứ chứng minh quyền sử dụng đất thường không rõ ràng. Công tác quản lý nhà nước về đất đai còn hạn chế như: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trái quy định, cấp chồng lấn trên diện tích đất của người khác; một số cán bộ cấp cơ sở cố ý làm trái như cùng một diện tích đất nhưng cấp 2 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thu hồi đất không đúng quy định để cấp cho người khác; xác nhận nguồn gốc đất không chính xác dẫn đến cấp nhầm quyền sử dụng đất cho người khác… Đây là thực trạng khá phổ biến, lý do căn bản của tình trạng tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện đất đai kéo dài, vượt cấp hiện nay.
Khoản 1, Điều 225 dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) quy định: "Tranh chấp đất đai, tranh chấp đất đai và tài sản gắn liền với đất do Tòa án Nhân dân giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự". Theo đó, UBND cấp tỉnh, huyện sẽ không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai. Việc này sẽ thu hẹp quyền lựa chọn của các đương sự trong giải quyết tranh chấp đất đai, cũng như gia tăng áp lực lên hệ thống Tòa án Nhân dân (TAND) các cấp trong quá trình thụ lý, giải quyết tranh chấp đất đai.
Bảo đảm quyền lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp
Khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: "2. Tranh chấp đất đai mà đương sự không có Giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định:a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền theo quy định tại Khoản 3 Điều này;b) Khởi kiện tại TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.".
Trong trường hợp này, đương sự sẽ có quyền lựa chọn, đó là nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp có thẩm quyền, hoặc nộp đơn khởi kiện tại TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp có thẩm quyền, nếu kết quả giải quyết đất đai đúng quy định và có hiệu lực thi hành, vụ việc không khiếu nại, khiếu kiện thì các bên buộc phải chấp hành. Vụ việc tranh chấp đất đai sẽ kết thúc.
Điểm lợi thế của giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp có thẩm quyền là quá trình thụ lý, giải quyết, UBND có thẩm quyền giải quyết có thể trực tiếp huy động các cơ quan, ban ngành, địa phương liên quan để cùng tham gia giải quyết vụ việc; có thể chỉ đạo giải quyết ngay tranh chấp từ khâu hòa giải ở cơ sở; có thể thỉnh thị ý kiến của cơ quan chuyên môn cấp trên trong quá trình giải quyết; có thể sử dụng trang thiết bị hiện đại để đo đạc, xác định vị trí thửa đất có tranh chấp; có thể tìm kiếm các tài liệu lưu trữ qua các thời kỳ… làm cơ sở giải quyết vụ việc tranh chấp khách quan, đúng pháp luật.
Đối với TAND, nếu thụ lý, giải quyết vụ việc tranh chấp thì phải trải qua quá trình kiểm tra, xác minh tương tự để làm sáng tỏ vụ việc; phải yêu cầu UBND các cấp cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất làm căn cứ cho TAND giải quyết theo thẩm quyền nhưng chưa chắc đã đầy đủ, toàn diện và thuận lợi hơn so với việc giải quyết tranh chấp đất đai do UBND cấp có thẩm quyền thực hiện.
Bên cạnh đó, nếu đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp của Chủ tịch UBND cấp huyện thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh hoặc khởi kiện tại TAND theo quy định tố tụng hành chính (khởi kiện quyết định giải quyết tranh chấp đất đai). Còn trong trường hợp, đương sự khởi kiện tại TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, thì khi Tòa án thụ lý giải quyết thì đương sự không được quyền nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền. Trong trường hợp, đương sự khởi kiện tại TAND, nếu không đồng ý kết quả giải quyết tranh chấp, thì có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Điều này cho thấy, cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai theo Luật Đất đai năm 2013 rất linh hoạt, đương sự có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp và đây là cơ sở để xem xét, giải quyết vụ việc tranh chấp đất đai khách quan, đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu thực sự đối với quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp có thẩm quyền là cơ sở để UBND các cấp tự kiểm tra và khắc phục những thiếu sót trong công tác quản lý đất đai. Từ đó, xử lý những hành vi vi phạm của đội ngũ cán bộ tham mưu công tác quản lý đất đai; đồng thời, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người sử dụng đất.
Chính vì vậy, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) cần kế thừa việc giải quyết tranh chấp đất đai của UBND cấp có thẩm quyền nhằm bảo đảm quyền lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp của các đương sự; giảm áp lực về số lượng vụ việc tranh chấp đất đai do TAND phải giải quyết. Đặc biệt, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai của UBND các cấp sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai tại các địa phương hiện nay.