Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22.12.2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định mục tiêu Quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương trên môi trường số, kết nối và vận hành thông suốt giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị. Để đạt mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ cốt lõi Nghị quyết số 57 chỉ ra là có kế hoạch và lộ trình đưa toàn bộ hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị lên môi trường số, bảo đảm liên thông, đồng bộ, bí mật nhà nước. Xây dựng nền tảng số dùng chung quốc gia, phát triển hệ thống giám sát, điều hành thông minh nhằm tăng cường quản lý công. Đổi mới toàn diện việc giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính; nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến, dịch vụ số cho người dân và doanh nghiệp, hướng tới cung cấp dịch vụ công trực tuyến toàn trình, cá nhân hóa và dựa trên dữ liệu; tăng cường giám sát, đánh giá và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong phục vụ Nhân dân.

Muốn quản lý nhà nước trên môi trường số, yếu tố con người, cụ thể là cán bộ, công chức đóng vai trò quyết định. Giữa chuyển đổi số và sắp xếp tinh gọn bộ máy có mối liên quan mật thiết với nhau. Tinh gọn bộ máy hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả là điều kiện cần để quản lý nhà nước trên môi trường số. Chuyển đổi số sẽ góp phần tinh gọn bộ máy, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả làm việc của cán bộ, công chức sẽ được nâng cao.
Tạo thay đổi về chất
Trong kỷ nguyên số, khi xây dựng được một hạ tầng số tin cậy, an toàn, với một hạ tầng dữ liệu thống nhất, “đúng, đủ, sạch, sống” dùng chung thì có thể tổ chức lại bộ máy các ngành, các cấp gọn nhẹ, hiệu quả hơn hẳn về chất.
Chuyển đổi số bao gồm 3 trụ cột chính là chính quyền số, kinh tế số và xã hội số. Trong đó, có thể thấy trụ cột kinh tế số đóng vai trò then chốt, là cơ sở hạ tầng. Theo các chuyên gia, sự thay đổi cấu trúc kinh tế theo hướng kinh tế số, kiến tạo phương thức sản xuất số hay chuyển đổi số các ngành kinh tế, tạo đột phá về kinh tế. Chính quyền số và xã hội số được ví như kiến trúc thượng tầng phải được chuyển đổi cho phù hợp với phương thức sản xuất mới này. Nghĩa là muốn có kinh tế số thì quyền số và xã hội số phải thay đổi để phù hợp với cơ sở hạ tầng là kinh tế số.
Đúng như nhấn mạnh của Tổng Bí thư Tô Lâm “Chúng ta cần thống nhất nhận thức và hành động về sự cấp bách phải tiếp tục tiến hành công cuộc đổi mới về kinh tế. Nếu không đổi mới không thể đạt được mục tiêu tăng trưởng hai con số. Nếu năm 2025 đạt được mục tiêu đó thì những năm sau, những nhiệm kỳ sau tiếp tục đạt được. Trong đó, phải rất ưu tiên là bộ máy phải tinh gọn lại thì mới cất cánh được, mới bay cao, bay xa được, chứ nặng quá thì rất khó khăn...”.
Thực tiễn hiện nay, việc xây dựng chính quyền số đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, vẫn còn một số “điểm nghẽn” cần tháo gỡ. Hệ thống Cổng dịch vụ công của một số tỉnh với Cổng dịch vụ công quốc gia chưa đồng bộ, quá trình cập nhật dữ liệu của hai hệ thống còn chậm. “Trên lĩnh vực Tư pháp - Hộ tịch có thể thấy rõ những vướng mắc như Hệ thống phần mềm giải quyết thủ tục hành chính chưa được kết nối liên thông với các dữ liệu chuyên ngành, công chức tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính phải cập nhật 2 phần mềm, ảnh hưởng đến tiến độ giải quyết thủ tục hành chính, nhất là với các thủ tục hành chính có thời hạn giải quyết ngắn và có nhiều yêu cầu của công dân như thủ tục đăng ký khai sinh. Giữa cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu hộ tịch mặc dù đã có chỉ đạo rà soát nhưng tiến độ chậm và trong thực tế dữ liệu vẫn còn những sai sót chưa được chỉnh sửa để đồng bộ. Mục tiêu “sạch, sống, đủ, đúng” mà Đề án 06 đề ra cũng khó toàn vẹn” - bà Phan Thị Nga, công chức Tư pháp - Hộ tịch thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh bày tỏ.
Một “điểm nghẽn” có thể nhìn thấy rất rõ và cần có chính sách giải pháp quyết liệt, đó chính là năng lực, trình độ của cán bộ, công chức trong xu thế chuyển đổi số. Không thiếu những cán bộ, công chức kỹ năng sử dụng các phần mềm, ký số điện tử thậm chí là xử lý hồ sơ trên môi trường mạng chưa thực hiện được. Tâm lý “ngại” công nghệ cùng với tư tưởng ỷ lại, không muốn đổi mới cũng góp phần tạo sức ỳ cho nền hành chính, gây phiền hà cho công dân, tổ chức. Do đó, muốn chuyển đổi số thì trong tinh gọn bộ máy rất cần có giải pháp đưa ra khỏi hệ thống chính trị những cán bộ, công chức “ngại” công nghệ, ngại chuyển đổi số.
Gần dân, chung một chữ “đồng”
Thông qua chuyển đổi số, người dân có thể tham gia thực chất vào công việc quản trị địa phương đúng như mục tiêu Nghị quyết số 57 hướng đến. Theo đó, chính quyền có thể nắm bắt nhanh chóng và chính xác tâm tư, nguyện vọng của người dân để có thể phục vụ người dân và doanh nghiệp tốt hơn; ngược lại, người dân cũng có thể giám sát việc thực thi của chính quyền. Tiệm cận dần với xu thế tất yếu của quản lý xã hội, đó là sự thay đổi về chủ thể quản lý, thể hiện rõ bản chất của nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Theo đó, nhà nước và Nhân dân sẽ cùng quản trị xã hội. Đây chính là minh chứng cho phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng ta đã xác định.
Tuy nhiên, để hiện thực hóa mục tiêu chính quyền số thì thực tiễn tại Việt Nam đang đặt ra nhiều rào cản cần tháo gỡ. Bên cạnh hạ tầng công nghệ thông tin chưa đồng bộ, trang thiết bị thiếu thốn, một “điểm nghẽn” trong xây dựng chính quyền số chính là thiếu sự đồng hành của người dân, cụ thể là việc tạo ra đội ngũ công dân số vẫn còn vướng mắc. Điều này có thể thấy rất rõ tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại nhiều địa phương ở cơ sở. Vẫn còn không ít công dân chưa cài đặt ứng dụng VNeID hoặc đã được cài đặt nhưng chưa được định danh mức độ 2 hoặc đã được cài đặt định danh mức độ 2 nhưng quên mật khẩu, gặp khó khăn trong việc lấy lại mật khẩu; cá biệt có những công dân chưa biết sử dụng tài khoản VNeID hoặc ngại sử dụng nên công chức tại bộ phận một cửa phải làm thay. Không chỉ ảnh hưởng đến nhiệm vụ, việc bảo mật thông tin của người dân cũng sẽ bị ảnh hưởng. Nếu không làm thì cũng không được vì hiện nay đa số hồ sơ buộc phải nhập trực tuyến để nâng cao tỷ lệ trực tuyến theo chỉ tiêu được giao.
“Cán bộ bắt nhập trực tuyến thì mới cho đăng ký cấp giấy chứng nhận đăng ký xe và cấp biển số. Mình là người đồng bào nên có nhiều cái mình chưa hiểu lắm. Điện thoại chưa có cài đặt nên phải nhờ cán bộ làm giúp thôi. Mình chịu” - chị H’Nhi Ksơr, buôn B’Lếch, huyện Eah’Leo, tỉnh Đắk Lắk chia sẻ.
Còn với anh Lê Tuấn Anh, thành phố Vinh, Nghệ An - một người dân lên giao dịch chứng thực bản sao điện tử từ bản chính cho rằng nhu cầu chứng thực bản sao điện tử từ bản chính của người dân như anh rất ít, phần lớn dùng bản giấy. Nếu muốn số hóa hoàn toàn, Nhà nước cũng cần quy định rõ việc sử dụng bản chứng thực điện tử trong các giao dịch. Ngoài ra, cũng cần có những công chức chuyên nghiệp, thành thạo công nghệ thông tin để xử lý, tháo gỡ các vướng mắc cho dân. Một điều kiện nữa là máy móc, trang thiết bị phải đầy đủ, đường truyền ổn định chứ ngay tại thành phố lớn mạng còn lỗi và “nghẽn” thì rất khó để xây dựng chính quyền số.
Theo nhiều chuyên gia, trong đợt sắp xếp, tinh gọn bộ máy lần này, nếu muốn đạt mục tiêu của chuyển đổi số nhanh, mạnh, trúng đích, bên cạnh đưa ra khỏi hệ thống những cán bộ, công chức yếu kém, rất cần có chính sách đặc thù thu hút, tuyển dụng, giữ chân nhân lực về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số làm việc trong các cơ quan của hệ thống chính trị.
Cuối cùng, để tinh gọn bộ máy gắn với chuyển đổi số, người dân với vai trò là người thụ hưởng và đồng thời là "người đồng hành," cần thay đổi tư duy, tích cực tiếp cận và sử dụng các dịch vụ công trực tuyến, tiến tới làm chủ, sánh vai cùng Nhà nước quản trị xã hội. Chỉ khi chính quyền, Nhân dân, rộng ra là toàn xã hội cùng đồng lòng, chung sức thì chính quyền số mới có thể phát huy tối đa hiệu quả. Nhờ đó, bộ máy tinh gọn sẽ tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của Nhân dân.