Theo ĐBQH Nguyễn Hữu Đàn (Quảng Trị), việc ban hành Luật Phòng không nhân dân là một yêu cầu cấp thiết, nhằm cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay. Luật khẳng định vai trò thiết yếu của lực lượng phòng không nhân dân trong phòng ngừa và xử lý hiệu quả các tình huống quốc phòng an ninh trên không, bảo đảm không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Đại biểu Nguyễn Hữu Đàn đề nghị, nên chuyển toàn bộ nội dung quản lý tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ từ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2014) sang quy định tại dự thảo Luật Phòng không nhân dân. Bởi lẽ, dù Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã có quy định về quản lý tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ, nhưng các quy định này còn thiếu chế tài xử lý cụ thể, chỉ mang tính nguyên tắc.
Cụ thể, Khoản 2 Điều 21 quy định tiêu chuẩn đủ điều kiện bay; Khoản 2 Điều 27 quy định về khai thác tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ; và Điểm b Khoản 2 Điều 81 quy định cấp phép bay.
Tuy nhiên, tất cả các nội dung này chỉ được giao cho Bộ Quốc phòng quy định chi tiết mà không có quy định pháp lý rõ ràng trong Luật.
Bộ Quốc phòng hiện đang chủ trì quản lý và bảo vệ vùng trời quốc gia, giám sát hoạt động bay dân dụng, cấp phép bay, quản lý tàu bay quân sự và tàu bay không người lái, phương tiện bay siêu nhẹ. Việc chuyển nội dung quản lý từ Luật Hàng không dân dụng Việt Nam sang Luật Phòng không nhân dân sẽ phù hợp với chức năng và nhiệm cụ của Bộ Quốc phòng, bảo đảm quản lý chặt chẽ và thống nhất hơn, đại biểu Nguyễn Hữu Đàn nêu rõ.
Tại khoản 7 Điều 2 về giải thích từ ngữ, đại biểu Nguyễn Hữu Đàn đề nghị bổ sung cụm từ “… trật tự an toàn xã hội” trước cụm từ “quốc phòng, an ninh” sau cụm từ “và an toàn hàng không”. Việc bổ sung cụm từ “trật tự an toàn xã hội” nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật, bao gồm các vấn đề liên quan đến trật tự an toàn xã hội, bảo đảm an toàn hàng không và quốc phòng, an ninh được quản lý chặt chẽ hơn. Điều này cũng giúp Luật bao quát và đầy đủ hơn trong việc điều chỉnh các hoạt động liên quan đến phương tiện bay siêu nhẹ.
Tại Khoản 1 Điều 13 (trường hợp, thời hạn huy động lực lượng phòng không nhân dân) quy định thời hạn không quá 7 ngày. Đại biểu Nguyễn Hữu Đàn đề nghị, sửa thời hạn không quá 12 ngày để thống nhất với thời gian huấn luyện lực lượng dân quân binh chủng quy định tại Thông tư số 69/2020/TT-BQP của Bộ Quốc phòng.
Đồng tình với quan điểm trên, ĐBQH Nguyễn Thị Thu Hà (Quảng Ninh) cho rằng, huy động trong 7 ngày, từ việc tham gia huấn luyện đến diễn tập là quá ngắn so với các lực lượng khác, như lực lượng an ninh cơ sở hay dân quân tự vệ... Do đó, tối thiểu cũng phải bằng diễn tập hoặc tập huấn của nhóm đối tượng 2, đối tượng 3; theo đó từ 12-23 ngày với quy định tối đa của diễn tập và huấn luyện.
Nhằm góp phần hoàn thiện các quy định, bảo đảm Luật sớm đi vào cuộc sống sau khi được thông qua, ĐBQH Lê Quang Đạo (Phú Yên) đề xuất, tại Khoản 2, Điều 15 dự thảo Luật, quy định về thẩm quyền huy động lực lượng phòng không nhân dân của người đứng đầu các tổ chức, các doanh nghiệp, cần điều chỉnh cụm từ “huy động nhân lực” thành “huy động nguồn lực”. Bởi, việc huy động nguồn lực mang tính phổ quát, khái quát hơn (có thể huy động nhiều người, phương tiện, cơ sở vật chất, các tổ chức doanh nghiệp…) so với nhân lực.
Tại khoản 3, Điều 25 của dự thảo Luật quy định về xây dựng công trình phòng thủ phòng không nhân dân, đại biểu Lê Quang Đạo đề nghị bổ sung cụm từ “trên biển đảo” sau cụm từ "trên bộ”. Hiện nay, không chỉ trên bộ mà trên biển đảo cũng đã xây dựng công trình phòng không, vì vậy những công trình phòng không nhân dân được xây dựng trên biển đảo cũng cần bảo đảm phù hợp với các điều ước và thông lệ quốc tế.
ĐBQH Trần Thị Thanh Lam (Bến Tre) đề nghị Ban soạn thảo cần tiếp tục phân tích kỹ, bảo đảm sự thống nhất và chặt chẽ trong chức năng, nhiệm vụ của lực lượng phòng không nhân dân so với lực lượng dân quân tự vệ, cũng như mối quan hệ giữa lực lượng phòng không nhân dân với lực lượng phòng không không quân của quân đội.