Mô tả vị trí việc làm còn định tính
Để bảm đảm công bằng, khách quan trong đánh giá cán bộ, công chức; Luật Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã bổ sung các nội dung liên quan đến đánh giá cán bộ, công chức theo hướng đánh giá định lượng, gắn với vị trí việc làm, thể hiện thông qua công việc, sản phẩm cụ thể. Việc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của cá nhân phải gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp phụ trách. Trên cơ sở các quy định của Luật và các nghị định của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương cụ thể hóa thành các quy định, quy chế đánh giá, xếp loại chất lượng đối với cán bộ, công chức theo thẩm quyền.
Theo Bộ Nội vụ, trong giai đoạn từ 2020 – 2023, tỷ lệ công chức được đánh giá ở mức hoàn thành xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ chiếm tỷ lệ cao, chiếm 84%. Kết quả đánh giá được các cơ quan, địa phương sử dụng làm căn cứ quan trọng trong bố trí, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng, khen thưởng, kỷ luật và thực hiện chế độ, chính sách khác đối với công chức; bước đầu tạo cơ sở để loại bỏ những người có năng lực yếu kém, không đáp ứng yêu cầu của vị trí việc làm.
Thời gian qua, Bộ Nội vụ đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ phối hợp xây dựng danh mục, bản mô tả vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính. Chính phủ ban hành quy định về vị trí việc làm và biên chế công chức, đồng thời đẩy mạnh phân cấp cho các bộ quản lý ngành, lĩnh vực ban hành quy định hướng dẫn về vị trí việc làm công chức theo ngành, lĩnh vực được giao quản lý để áp dụng thống nhất. Đã có 20/20 bộ quản lý ngành, lĩnh vực đã ban hành thông tư hướng dẫn về vị trí việc làm theo phân cấp. Đồng thời, 100% bộ, ngành, địa phương hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm, cơ cấu ngạch công chức theo quy định.
Tuy vậy, sau 5 năm tổ chức thực hiện quy định của Luật còn có tồn tại, hạn chế và phát sinh vướng mắc. Trong đó, cơ chế quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm còn có hạn chế nhất định. Khoản 3, Điều 7 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định: “Vị trí việc làm là công việc gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu và ngạch công chức để xác định biên chế và bố trí công việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”. Việc xác định vị trí việc làm có ý nghĩa rất lớn, làm căn cứ để thực hiện công tác quản lý, tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và cải cách tiền lương.
Tuy nhiên, đây là nội dung mới, phạm vi triển khai rộng, đối tượng đa dạng trong các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau nên quá trình thực hiện gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đến nay việc phê duyệt Danh mục vị trí việc làm ở các cơ quan, tổ chức hành chính đã cơ bản hoàn thành nhưng chưa đồng bộ với việc mô tả vị trí việc làm, đặc biệt là thống kê, đánh giá công việc của từng cá nhân còn mang tính khái quát, định tính. Bản mô tả, phân tích quy trình giải quyết công việc chưa được hướng dẫn cụ thể để triển khai. Từ đó dẫn tới việc xác định vị trí việc làm và số lượng vị trí việc làm chưa chính xác, chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra.
Bên cạnh đó, việc xây dựng khung năng lực vị trí việc làm còn định tính, vì vậy, hiện nay hầu hết đều dựa vào quy định tiêu chuẩn ngạch, bậc công chức để làm căn cứ xác định khung năng lực vị trí việc làm. Điều này chưa đáp ứng được yêu cầu của xác định vị trí việc làm. Cùng với đó, chưa có tiêu chí đánh giá về khối lượng công việc để làm căn cứ tính toán xác định khoa học số lượng người ở mỗi vị trí việc làm hoặc để xác định một người có thể kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ khác nhau. Từ đó dẫn đến khó khăn trong quá trình xác định biên chế công chức và số lượng viên chức theo vị trí việc làm. Đây là những vướng mắc cần phải khắc phục nếu muốn xác định được cụ thể số lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu để vận hành tổ chức bộ máy trong tình hình mới
Việc tìm người trên cơ sở sản phẩm cụ thể
Là người đặc biệt quan tâm đến vấn đề sắp xếp tổ chức bộ máy, khi trao đổi chuyên đề “Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XIV mới đây, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh về giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới. Trong đó, đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được. Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín.
Tuy nhiên, chúng ta muốn “sàng lọc” được cán bộ, công chức, và có cơ sở tuyển dụng, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, đặc biệt là để việc tìm đúng người, đòi hỏi phải có quy định cụ thể, chi tiết về vị trí việc làm, các quy định về đánh giá cán bộ, công chức không thể chung chung, định tính.
Nhằm khắc phục những hạn chế nêu trên, trong sửa đổi Luật Cán bộ công chức lần này Bộ Nội vụ đã đề xuất chính sách đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Theo đó, đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức từ kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế sang cơ chế quản lý cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Lấy vị trí việc làm làm cơ sở để thực hiện công tác tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, đồng thời, tạo cơ chế cạnh tranh theo vị trí việc làm dựa trên kết quả công việc, hướng tới nền công vụ thực tài.
Một trong những giải pháp để thực hiện được mục tiêu này, là nghiên cứu sửa đổi quy định về vị trí việc làm gắn với yêu cầu của ngành, lĩnh vực; từng bước bỏ quy định về ngạch và cơ cấu ngạch công chức; hoàn thiện cơ chế quản lý, sử dụng và trả lương đối với cán bộ, công chức theo vị trí việc làm. Cùng với đó, nghiên cứu, bổ sung quy định cho phép cơ quan nhà nước được ký hợp đồng lao động đối với một số vị trí việc làm thực thi, thừa hành do công chức đảm nhiệm để tạo sự linh hoạt trong sử dụng nguồn nhân lực, đặc biệt đối với cơ quan hành chính có nguồn thu theo quy định của pháp luật.
Có thể thấy, dù đã có quy định về vị trí việc làm nhưng việc triển khai trên thực tế vẫn là một bài toán khó. Bởi đây là việc khó khăn, nhạy cảm và phức tạp, liên quan trực tiếp đến con người, đến việc làm của cán bộ, công chức, viên chức. Nhưng khó khăn, chúng ta vẫn phải quyết tâm làm, phải đổi mới cơ chế quản lý cán bộ, công chức một cách thực chất theo vị trí việc làm nếu chúng ta muốn có bộ máy vận hành tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả vì nước, vì nhân dân.