Phải đi từ gốc rễ vấn đề
Thực tế đang đặt ra câu hỏi tại sao cùng là tài sản như nhau nhưng tại các đơn vị, doanh nghiệp tư nhân lại quản lý tốt và sử dụng hiệu quả trong khi tại các cơ quan, đơn vị nhà nước lại quản lý lỏng lẻo, dẫn đến thất thoát, lãng phí, thậm chí là tham nhũng dù đã có luật điều chỉnh vấn đề này? Có thể trả lời một cách đơn giản là do ý thức, chế tài xử phạt chưa nghiêm minh; việc quản lý thì theo kiểu “năm cha, ba mẹ”, còn sử dụng thì kiểu “cha chung không ai khóc”…
Khi thảo luận về dự án Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (sửa đổi) chiều 10.11 vừa qua, ĐB Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cho rằng, để đạt được mục đích góp phần thay đổi về chất đối với thực trạng về quản lý và sử dụng tài sản công hiện nay thì phải đi từ gốc rễ của vấn đề. Tại sao việc quản lý và sử dụng tài sản công của Việt Nam kém hiệu quả, không khoa học, thất thoát, lãng phí và gia tăng tệ nạn tham nhũng? Đó là do sự không minh bạch, không hiệu quả trong cơ chế và cách thức quản lý. Theo ĐB Hà Sỹ Đồng, để giải quyết tận gốc rễ vấn đề cần bảo đảm nguyên tắc quản lý và sử dụng tài sản công minh bạch, độc lập và hiệu quả. Việc quản lý không phải chỉ duy trì mà thậm chí phải gia tăng, phát triển tài sản công. Tài sản công của quốc gia là khối tài sản rất lớn từ đất đai, tài nguyên đến tiền tệ, từ hữu hình đến vô hình nên cần có sự phân loại trong quản lý để đạt được hiệu quả cao nhất. Việc phân loại nên theo mục đích quản lý, mục đích phục vụ an ninh quốc gia, cộng đồng, xã hội và mục đích sinh lời. Theo đó, với tài sản phục vụ mục đích sinh thời thì cơ chế quản lý và sử dụng cần năng động, linh hoạt, theo cơ chế thị trường. Còn với mục đích phi lợi nhuận cần có cơ chế quản lý khác để đạt được mục tiêu đề ra.
Thực tế, để quản lý chặt chẽ và sử dụng tài sản công hiệu quả điều cần thiết nhất là phải quy rõ trách nhiệm; phải có cách phân loại bảo đảm lợi ích của Nhà nước theo chủ thể quản lý nhằm xác định trách nhiệm. Do vậy, theo ĐB Triệu Thế Hùng (Lâm Đồng), vấn đề sâu xa không phải chỉ đổi tên luật, đổi cách gọi đối với một tài sản mà là thay đổi nhận thức, thay đổi khái niệm pháp lý. Hiến pháp năm 2013 đã xác định tài sản công thuộc sở hữu của toàn dân, Nhà nước là đại diện chủ sở hữu khác với khái niệm tài sản nhà nước trong luật hiện hành. Nhận thức đúng và thực hiện đúng Hiến pháp năm 2013 sẽ tránh được nguy cơ lạm dụng quyền lực và gây lãng phí nghiêm trọng trong quản lý và sử dụng tài sản của nhân dân.
Tán thành với quan điểm sửa đổi luật, ĐB Phan Thái Bình (Quảng Nam) đề nghị luật được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm quản lý sử dụng tài sản công một cách hiệu quả, thiết thực và tiết kiệm nhất. Không để lỗ hổng của pháp luật mà xảy ra việc lạm dụng và lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quản lý, sử dụng tài sản công. Còn ĐB Hà Thị Minh Tâm (Hà Nam) thì cho rằng, khi nghiên cứu, xây dựng nội dung luật này cần xem xét và rà soát kỹ đối tượng, phạm vi điều chỉnh để bảo đảm không chồng chéo với các văn bản luật khác…
Theo số liệu của Cục Quản lý công sản, Bộ Tài chính hiện tài sản là nhà, đất, ô tô và các loại tài sản khác được giao cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội quản lý đã lên tới 1.040.452 tỷ đồng. Từ 1.1.2009 đến đầu tháng 8.2016, Nhà nước đã đầu tư thêm 94.285 tài sản để giao cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức với tổng trị giá gần 220.775 tỷ đồng. Nếu các cơ quan chỉ cần tăng sử dụng có hiệu quả khối sản này từ 1 - 2% thì mỗi năm ngân sách nhà nước sẽ tiết kiệm 10.000 - 20.000 tỷ đồng. Do vậy, cần thiết phải có chế tài chặt chẽ, nghiêm minh để điều chỉnh vấn đề này. Nên chăng, dự thảo luật chỉ nên xây dựng theo dạng luật khung và tập trung vào một số đối tượng điều chỉnh cụ thể chưa được luật hóa trong phạm vi nhất định, tránh lan man chỗ thiếu, chỗ thừa khó thực hiện và không khả thi - ĐB Hà Thị Minh Tâm đặt vấn đề.