Gặp khó khi thu hồi nợ xấu
Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết số 42) được Quốc hội ban hành năm 2017 khi tỷ lệ nợ xấu chưa xử lý và nợ tiềm ẩn nguy cơ thành nợ xấu lên đến 10,08% tổng dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng. Thời điểm đó, khung pháp lý điều chỉnh hoạt động xử lý nợ xấu còn thiếu đồng bộ, tính hiệu quả còn nhiều hạn chế nên việc thu hồi nợ của ngân hàng gặp nhiều khó khăn, huy động vốn gặp nhiều ách tắc.
Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng cho biết, khi phát sinh nợ xấu, ý thức trả nợ của khách hàng rất kém, không hợp tác, không bàn giao tài sản, tạo ra những tranh chấp để kéo dài thời gian trả nợ. Khi Nghị quyết số 42 chính thức có hiệu lực, cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt và thành công nhất là trong việc thu giữ tài sản giúp nâng cao trách nhiệm của người vay, tạo điều kiện hỗ trợ cho ngân hàng trong việc xử lý thu hồi nợ.
Cụ thể, trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực, xử lý nợ xấu đối với việc khách hàng trả nợ bình quân khoảng 20%. Khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực thì tỷ lệ này được nâng lên 36%. Từ 8.2017 đến cuối năm 2023, tổng số xử lý nợ xấu khoảng 445.000 tỷ đồng, trong đó, nợ xử lý khách hàng trả nợ là 161.000 tỷ đồng, xử lý tài sản đảm bảo là 93.000 tỷ đồng chiếm tỷ lệ hơn 20%. Tỷ lệ xử lý nợ xấu thông qua thi hành án, thu giữ tài sản, khách hàng tự trả nợ khoảng dưới 40%.

Ngày 31.12.2023, Nghị quyết số 42 chính thức hết hiệu lực, tổng số nợ xấu là 4,55%, nếu tính cả nợ tiềm ẩn là 6,41%. Tính đến ngày 31.12.2024, tổng nợ xấu khoảng 5,46% với số tiền là 1.030.000 tỷ đồng, đây là con số rất lớn. Trong đó, có 677.000 tỷ đồng ngân hàng dùng bằng nguồn xử lý rủi ro nhưng chưa xử lý được tài sản, chưa thu hồi được nợ. Tổng số nợ xấu nội bảng, nợ xấu tiềm ẩn rủi ro bán cho VAMC là 1.030.000 tỷ đồng, trong đó nợ xấu nội bảng 778.000 tỷ đồng, nợ bán cho VAMC là 101.000 tỷ đồng, nợ tiềm ẩn rủi ro là 155.000 tỷ đồng, so với khi Nghị quyết số 42 đang có hiệu lực thì tổng nợ lớn hơn.
Tuy nhiên, hai tháng đầu năm 2025, nợ xấu tăng nhanh (tăng khoảng 34.000 tỷ đồng), trong khi tốc độ xử lý nợ xấu chỉ đạt khoảng 15.000 tỷ đồng do các tổ chức tín dụng trích dự phòng rủi ro để xử lý.
“Như vậy, nguồn xử lý nợ xấu chủ yếu đến từ việc các tổ chức tín dụng trích từ dự phòng rủi ro, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của các ngân hàng, cũng như giảm nguồn lực hỗ trợ ngược lại các doanh nghiệp, dòng tiền không luân chuyển được, ảnh hưởng đến thanh khoản nếu không xử lý kịp thời. Kể cả các bản án đã có hiệu lực thi hành cũng rất vướng mắc, khó khăn. Trong số hơn 40.000 các vụ việc có hiệu lực thi hành, chuyển sang thi hành án, năm 2024, chỉ giải quyết được 15% vụ án với số tiền nhỏ so với bản án có hiệu lực. Có thể thấy, sau khi Nghị quyết số 42 hết hiệu lực, ý thức trả nợ của khách hàng kém đi", Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nhấn mạnh.
Lấp khoảng trống pháp lý
Luật hóa Nghị quyết số 42 là một yêu cầu cần thiết trong bối cảnh hiện nay nhằm tháo gỡ vướng mắc, rào cản, khơi thông nguồn lực, nâng cao hiệu quả, chất lượng pháp luật, nhất là trong bối cảnh nợ xấu gia tăng, rủi ro chiến tranh thương mại -công nghệ ở mức cao, tác động lớn đến nền kinh tế, doanh nghiệp và thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam. Tuy nhiên, việc chuyển hóa các quy định mang tính thí điểm thành luật đòi hỏi phải đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và đặc biệt là sự công bằng giữa các bên liên quan - bao gồm tổ chức tín dụng, khách hàng vay vốn và các chủ thể có quyền lợi liên đới khác.
Cũng xuất phát từ thực tiễn, vướng mắc của các tổ chức tín dụng và những quan điểm đã dự thảo để đưa vào Luật Các tổ chức tín dụng trước đây, Hiệp hội Ngân hàng đã tổng hợp ba nội dung chính gồm: luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm; luật hóa quy định về kê biên tài sản bảo đảm của bên phải thi hành án; luật hóa quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự và bổ sung quy định về hoàn trả tài sản bảo đảm là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính.

Theo đó, liên quan đến quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, việc thu giữ phải có trình tự thủ tục bảo đảm tính công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích giữa các bên, tạo điều kiện tối đa cho khách hàng trong việc xử lý tài sản bảo đảm nhưng quan trọng nhất vẫn là ý thức trách nhiệm.
Về vấn đề kê biên tài sản của bên phải thi hành án đang được sử dụng làm tài sản bảo đảm cho khoản nợ xấu, đối với những tài sản bảo đảm chỉ nên kê biên đối với những trường hợp liên quan cấp dưỡng, bồi thường thiệt hại còn lại sẽ thuộc vào trách nhiệm của ngân hàng.
Về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự, là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính vụ việc vi phạm hành chính. Đã có nhiều bản án liên quan đến hình sự, dân sự, hành chính; trong quá trình xét xử, điều tra, xem xét, các tài sản bảo đảm này gần như đóng băng, thậm chí có tài sản sau khi bản án có hiệu lực thì có giá trị bằng 0 vì xuống cấp, tài sản hỏng như hàng hóa... “Đây là một trong những điểm mở của dự thảo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng lần này khi những tài sản không ảnh hưởng đến quá trình xét xử, xử lý sau xét xử thì sẽ được hoàn trả”, Phó Chủ tịch điều hành kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nêu ý kiến.