Luật Chữ ký điện tử của Trung Quốc

- Chủ Nhật, 23/10/2022, 06:31 - Chia sẻ

Năm 2004, Trung Quốc ban hành Luật Chữ ký điện tử. Đạo luật này sau đó được sửa đổi vào các năm 2015, 2019 nhằm hoàn thiện và phù hợp với sự phát triển của thương mại điện tử.

Trước khi Luật Chữ ký điện tử được thông qua, lần đầu tiên luật pháp Trung Quốc quy định thông điệp dữ liệu có thể được sử dụng dưới dạng văn bản để ký kết hợp đồng tại Điều 11 của Luật Hợp đồng, có hiệu lực từ ngày 1.10.1999. Theo đó, Điều 11 Luật Hợp đồng của Trung Quốc quy định rằng "Hình thức văn bản là hình thức mà nội dung trong hợp đồng, thư từ và thông điệp dữ liệu (bao gồm điện tín, telex, fax, trao đổi dữ liệu điện tử và e-mail) có thể được thể hiện một cách hữu hình".

Ngoài ra, Điều 469 Bộ luật Dân sự Trung Quốc cũng có quy định các bên có thể giao kết hợp đồng bằng văn bản, bằng miệng hoặc các hình thức khác. Hình thức văn bản là hình thức thể hiện một cách hữu hình nội dung trong hợp đồng, thư từ, điện tín, telex, fax... Các thông điệp dữ liệu có thể thể hiện một cách hữu hình nội dung chứa trong trao đổi dữ liệu điện tử, e-mail... có thể được điều chỉnh và sử dụng bất cứ lúc nào, được coi là dạng văn bản.

Về điều kiện để hợp đồng điện tử có hiệu lực pháp luật, Điều 3 Luật Hợp đồng của Trung Quốc quy định rõ: “địa vị pháp lý của các bên trong hợp đồng là bình đẳng, một bên không được áp đặt ý chí của mình cho bên kia”.

Điều 16 của Luật Hợp đồng của Trung Quốc cũng quy định rằng: "khi hợp đồng được ký kết dưới dạng thông điệp dữ liệu", "các hệ thống cụ thể được chỉ định" có thể được sử dụng.

Quy định kỹ thuật về thủ tục ký kết hợp đồng điện tử trực tuyến do Bộ Thương mại Trung Quốc ban hành quy định rằng: tính công bằng của quá trình và hiệu lực của kết quả chỉ có thể được bảo đảm thông qua việc giao kết hợp đồng điện tử trong hệ thống giao kết hợp đồng điện tử của một bên thứ ba (nhà cung cấp dịch vụ hợp đồng điện tử).

Vào năm 2004, Trung Quốc ban hành Luật Chữ ký điện tử, chính thức đặt cơ sở pháp lý cho sự phát triển toàn diện của thương mại điện tử ở nước này. Đạo luật này sau đó được sửa đổi vào các năm 2015 và 2019.

Luật được xây dựng nhằm chuẩn hóa hành vi của chữ ký điện tử, xác nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan.

Theo định nghĩa, “chữ ký điện tử” được đề cập trong Luật có nghĩa là dữ liệu chứa trong hoặc đính kèm thông điệp dữ liệu ở dạng điện tử, được sử dụng để xác định người ký và cho biết người ký chấp thuận nội dung trong đó. “Thông điệp dữ liệu” được đề cập trong Luật có nghĩa là thông tin được tạo ra, gửi, nhận hoặc lưu trữ bằng các phương tiện điện tử, quang học, từ tính hoặc các phương tiện tương tự.

Luật cũng quy định cụ thể những loại hợp đồng hoặc các văn bản, công cụ khác trong hoạt động dân sự mà các bên có thể thỏa thuận sử dụng hoặc không sử dụng chữ ký điện tử và thông điệp dữ liệu. Văn bản mà các bên liên quan đồng ý sử dụng chữ ký điện tử hoặc thông điệp dữ liệu sẽ không bị từ chối giá trị pháp lý trên cơ sở chữ ký điện tử hoặc thông điệp dữ liệu đang được sử dụng.

Các quy định của các khoản trên sẽ không áp dụng cho các tài liệu sau: liên quan đến các mối quan hệ cá nhân như hôn nhân, nhận con nuôi và thừa kế; liên quan đến việc đình chỉ các tiện ích công cộng như cấp nước, cấp sưởi, cấp khí đốt…

Về hiệu lực pháp lý của chữ ký hợp đồng điện tử, ngoài các quy định pháp luật cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử, các phương tiện kỹ thuật được áp dụng để giao kết hợp đồng điện tử cũng có các quy định pháp luật rõ ràng và chặt chẽ. Điều 14  của Luật Chữ ký điện tử quy định: “chữ ký điện tử đáng tin cậy có hiệu lực pháp lý tương tự như chữ ký viết tay hoặc con dấu”. Điều 13 của Luật Chữ ký điện tử quy định: chữ ký điện tử đồng thời đáp ứng các điều kiện sau đây được coi là chữ ký điện tử đáng tin cậy khi dữ liệu tạo chữ ký điện tử được sử dụng cho chữ ký điện tử là dữ liệu dành riêng cho người ký điện tử; dữ liệu tạo chữ ký điện tử chỉ do người ký điện tử kiểm soát tại thời điểm ký; có thể phát hiện bất kỳ thay đổi nào đối với chữ ký điện tử sau khi ký; mọi thay đổi về nội dung và hình thức của thông điệp dữ liệu sau khi ký đều có thể bị phát hiện.

Quỳnh Vũ