Vừa qua, Kiểm toán Nhà nước đã công bố báo cáo về kết quả kiểm toán năm 2023 đối vớihoạt động các tổ chức tài chính ngân hàng trong năm 2022 .
Theo đó, năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và chính sách vĩ mô khác đảm bảo kiểm soát lạm phát ở mức 3,15% , ổn định tỷ giá, hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế đạt mức 8,02%.
Các ngân hàng được kiểm toán cơ bản đảm bảo các chỉ tiêu an toàn trong hoạt động, kinh doanh có lãi, tỷ lệ nợ xấu nội bảng dưới 3%.
Tuy nhiên, kết quả kiểm toán cũng chỉ ra rằng, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán một số thời điểm còn thấp trong tương quan với tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng nhiều thời điểm trong năm còn căng thẳng.
Một số tổ chức tín dụng thiếu hụt vốn khả dụng dẫn đến vi phạm tỷ lệ dự trữ bắt buộc như: Ngân hàng TNHH MTV Public Việt Nam (Public Bank) (tháng 7.2022); Ngân hàng TMCP Bản Việt (đã đổi tên thành BVBank) (tháng 10.2022); Ngân hàng TMCP Sài Gòn; Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam (PV Combank), Ngân hàng TMCP Kiên Long (Kienlong bank); Ngân hàng BPCEIOM chi nhánh Hồ Chí Minh; Ngân hàng Deutsche Bank AG chi nhánh Hồ Chí Minh.
Có trường hợp Ngân hàng Nhà nước phải cho vay hỗ trợ thanh khoản, cho vay đặc biệt với số tiền lớn như trường hợp của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam (Co-opBank); Ngân hàng TMCP Sài Gòn.
Tăng trưởng tín dụng toàn ngành chỉ đạt 14,18%; cơ cấu tín dụng chưa đúng định hướng ưu tiên; dư nợ tín dụng lĩnh vực bất động sản cuối năm 2022 là 2.581 nghìn tỷ đồng, tăng 23,9% so với cuối năm 2021 và gấp 1,7 lần tỷ lệ tăng trưởng chung toàn ngành; tỷ trọng đầu tư trái phiếu doanh nghiệp/tổng dư nợ của một số ngân hàng cao như: Ngân hàng TMCP Đại chúng Việt Nam 14,08%; Ngân hàng TMCP Quân đội 7,66%; Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 7,04%.
Kiểm toán Nhà nước cho rằng, một số ngân hàng phân loại nợ chưa phù hợp, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng chưa chính xác, còn sai sót về trình tự, thủ tục cho vay.
Tại Ngân hàng chính sách có các trường hợp cho vay giải quyết việc làm không đúng đối tượng; cho vay vượt hạn mức; hỗ trợ lãi suất chưa đúng quy định; một số chi nhánh có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ khoanh cao, kéo dài nhiều năm nhưng chưa có biện pháp hiệu quả để khắc phục.