Tại hội thảo "Vấn đề xử lý nợ xấu trong dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi)" sáng 17.5, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư Nguyễn Anh Tuấn cho biết, Nghị quyết số 42 của Quốc hội đã mang lại những chuyển biến tích cực trong xử lý nợ xấu và góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.
Lũy kế đến cuối tháng 1.2023, toàn hệ thống đã xử lý được 416 nghìn tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42; trong đó, xử lý nợ xấu nội bảng đạt 211,9 nghìn tỷ đồng (chiếm 50,9%).
Tuy nhiên, sau hơn 6 năm triển khai Nghị quyết 42, thực tiễn cũng có nhiều khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Trong báo cáo gửi Quốc hội mới đây, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đến cuối tháng 2.2023 đã lên tới 2,91%, tăng khá mạnh so với mức 2% cuối năm 2022 và gần gấp đôi cuối năm 2021.
Ngân hàng Nhà nước xác định tổng nợ xấu nội bảng, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và nợ tiềm ẩn thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đến cuối tháng 2.2023 ước chiếm 5% tổng dư nợ - gần tương đương với tỷ lệ nợ xấu nền kinh tế phải đối diện khi Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) đánh giá chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại đang suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu gặp nhiều khó khăn.
Mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3% song tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất là một số khoản nợ về nguyên tắc đã trở thành nợ xấu song do được cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại nợ... và các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái...
Thực tế, trong hệ thống, nhiều ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2022 và quý 1.2023 cho thấy nợ xấu gia tăng mạnh so với trước, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trên 2%, một số ngân hàng nợ xấu tăng đột biến 4%.
TS. Cấn Văn Lực cho rằng, dự báo nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng có thể còn tăng trong năm 2023 khi rủi ro tín dụng gia tăng do khách hàng phải chịu tác động cộng hưởng từ những rủi ro còn lại do ảnh hưởng từ Covid-19, khó khăn trên thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đi cùng với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế khó khăn và mặt bằng lãi suất còn ở mức cao.
Ông Hoàng Hải Vương, Giám đốc Khu vực Miền Bắc, Ngân hàng Eximbank cho biết một trong những khó khăn lớn nhất trong xử lý nợ xấu là quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ tài sản bảo đảm phải đi kèm với điều kiện là hồ sơ thế chấp giữa khách hàng và các tổ chức tín dụng phải có thỏa thuận về các điều khoản thu giữ tài sản bảo đảm, song thực tế là tính đến thời điểm
Nghị quyết 42 có hiệu lực, đa số các hợp đồng thế chấp không có điều khoản này, như vậy muốn thực hiện được thì các tổ chức tín dụng phải tiến hành đàm phán với khách hàng vay để ký phụ lục hợp đồng điều chỉnh, tuy nhiên đối với những khoản nợ xấu đã phát sinh thì thuyết phục khách hàng trả nợ vay đã khó, thuyết phục khách hàng ký phụ lục hợp đồng còn khó khăn hơn rất nhiều.
Đại diện cho Tổ chức Tài chính Thế giới (IFC), ông Darryl Dong khuyến nghị cần sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng cần mở rộng quyền thu giữ tài sản đảm bảo cho các bên mua nợ xấu thông qua việc cho họ được thế quyền trong các quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ xấu. Hoặc ít nhất cho phép bên mua nợ xấu được ủy quyền cho bên bán nợ xấu quản lý khoản nợ xấu, thu nợ, và nếu cần thiết, thu giữ tài sản bảo đảm hay phát mại thay mặt cho bên mua nợ xấu.
Về thứ tự thanh toán khi xử lý tài sản đảm bảo, nhiều chuyên gia và ngân hàng thương mại ủng hộ phương án ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ của tổ chức tín dụng trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước.
Tuy nhiên, theo ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, có một số ý kiến cho rằng việc quy định ưu tiên này tại dự thảo Luật vẫn chưa phù hợp với pháp luật về thuế và pháp luật có liên quan.