Quan tâm hơn nữa vai trò của giáo dục đại học
Phát biểu tại hội trường, ĐBQH Nguyễn Thị Lan đã trình bày 2 nhóm vấn đề được cử tri hết sức quan tâm. Trước hết, đó là vấn đề liên quan đến giáo dục đại học. Cụ thể, vấn đề giáo dục, giáo dục đại học và nguồn nhân lực cũng đã được rất nhiều ĐBQH quan tâm phát biểu tại kỳ họp lần này, qua đó nhắc nhở chúng ta cần phải dành sự quan tâm thích đáng thiết thực và hiệu quả tới giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng. "Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và công cuộc chuyển đổi số, hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng như hiện nay nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của trường đại học càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết", ĐBQH Nguyễn Thị Lan nhấn mạnh.
Theo đại biểu, so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới tỷ lệ đầu tư công cho giáo dục đại học ở nước ta rất thấp. Thống kê cho thấy, chi tiêu giáo dục đại học tính trên GDP ở nhiều quốc gia trên thế giới đều chiếm ít nhất 1% GDP, trong khi đó ở Việt Nam chúng ta chỉ đạt 0,25%, còn tỷ lệ này của Thái Lan và Indonesia gần gấp đôi, gấp ba Việt Nam. Bên cạnh đó, kinh phí nghiên cứu khởi nghiệp đổi mới sáng tạo dành cho sinh viên và giảng viên ở các trường đại học còn quá ít, trong khi đó, nghiên cứu khoa học chính là sức sống của trường đại học.
Đáng chú ý, ĐBQH Nguyễn Thị Lan cũng thông tin thêm về việc, cử tri đề nghị Chính phủ, các bộ, ngành rà soát, đánh giá lại và hoàn thiện thêm khung khổ pháp lý, các quy định, các văn bản liên quan hỗ trợ cho các trường đại học tự chủ. Theo đó, Chính phủ, Quốc hội, các bộ, ngành thời gian qua đã rất nỗ lực, cố gắng để tháo gỡ vướng mắc về thể chế, chính sách với kỳ vọng lớn để các trường đại học phát triển và đóng góp về nguồn nhân lực chất lượng cao và sản phẩm khoa học công nghệ phục vụ quốc kế dân sinh.
"Tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại cần tiếp tục được quan tâm, tháo gỡ sớm, như vấn đề thương mại hóa sản phẩm khoa học công nghệ; vấn đề thí điểm cho các viên chức được tham gia quản lý doanh nghiệp, công ty khoa học công nghệ, khởi nghiệp; vấn đề xác định giá trị bản quyền công nghệ...", ĐBQH Nguyễn Thị Lan dẫn chứng.
Liên quan đến nhóm vấn đề thứ hai, cử tri nhiều huyện ngoại thành Hà Nội đề nghị Chính phủ các cấp, các ngành tiếp tục quan tâm, chỉ đạo, ưu tiên nguồn lực đầu tư để các dự án, công trình tuyến giao thông trọng điểm sớm được hoàn thành và đưa vào khai thác, sử dụng theo quy hoạch đã được phê duyệt để tránh lãng phí nguồn lực. Đại biểu cũng đề nghị Chính phủ cho phép Hà Nội có chính sách để khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp công nghệ cao trên diện tích đất bãi bồi ven sông trên cơ sở đảm bảo pháp luật về đê điều và phòng ngừa thiên tai.
Mặt khác, cử tri Thủ đô cũng đề nghị Nhà nước có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và nông dân hiệu quả hơn, như chính sách kết nối, liên kết từ khâu sản xuất, chế biến và tiêu thụ, thu hút và mở rộng bảo hiểm cho lĩnh vực nông nghiệp. Có chính sách hấp dẫn hơn, dễ thực hiện hơn để thu hút nhà đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp xứng tầm và tạo thành thế mạnh cho khu vực trong ngành nông nghiệp và tạo thế cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thực hiện có hiệu quả công tác quy hoạch trong vấn đề biển đảo
Còn ĐBQH Tạ Đình Thi lại thể hiện sự quan tâm tới công tác quy hoạch trong vấn đề biển đảo. Theo đại biểu, tại Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 36 ngày 22.10.2018 về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Đây được coi là chủ trương lớn của Đảng, được cử tri. Nhân dân và các cấp, các ngành, nhất là các địa phương có biển rất mong muốn, kỳ vọng chiến lược sẽ tạo ra những bước phát triển đột phá.
Theo nhiều chuyên gia, kinh tế biển là một trong 4 trụ cột tăng trưởng của nước ta dựa trên tiềm năng địa kinh tế quốc gia, thời cơ của thời đại. Hiện nay, Ban Kinh tế Trung ương đang tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 36, Chính phủ chuẩn bị trình Quốc hội thông qua quy hoạch không gian biển quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và xem xét phê duyệt quy hoạch khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ; đồng thời, các ngành, địa phương có biển đã và đang lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch tỉnh. Đáng chú ý, đến nay, đã có 37/42 quy hoạch ngành quốc gia, 4 quy hoạch vùng liên quan trực tiếp đến biển trong số 6 quy hoạch vùng kinh tế - xã hội, 27/28 quy hoạch tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển đã được phê duyệt hoặc đang được xem xét, phê duyệt...
Qua nghiên cứu và khảo sát về nội dung này, ĐBQH Tạ Đình Thi cho rằng các quy hoạch liên quan tới khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo mang tính chất liên ngành, liên vùng. Tuy nhiên, tư duy cách tiếp cận hiện nay lại chủ yếu mang tính chất đơn ngành, mang tính chất cục bộ và địa phương. Thông tin dữ liệu đầu vào chưa đồng bộ, thiếu cả về số lượng, chất lượng nên việc đánh giá hiện trạng tiềm năng tài nguyên biển phục vụ cho công tác dự báo xây dựng quy hoạch khó bảo đảm chất lượng theo yêu cầu...
Bên cạnh đó, các quy hoạch đang được triển khai lập đồng thời. Việc tích hợp các quy hoạch gặp nhiều khó khăn có thể dẫn đến sự thiếu đồng bộ, thống nhất, liên thông, kết nối giữa các quy hoạch hay sự chồng lấn, mâu thuẫn. "Điển hình như giữa các vùng nước cảng vận tải biển với nuôi trồng thủy sản, giữa vùng bảo vệ với vùng phát triển kinh tế; đối với vùng ven bờ là những mâu thuẫn, xung đột trong chuyển đổi mục đích sử dụng đất ven biển, lấn biển, nạo vét đáy biển với công tác bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học", ĐBQH Tạ Đình Thi dẫn chứng.
Ngoài ra, những vấn đề về thị trường, kinh tế, tài chính, các biện pháp chính sách cụ thể thông thường cũng ít được quan tâm và quan tâm đúng mức trong công tác quy hoạch. Mặt khác, việc phân định ranh giới trên biển còn gặp nhiều khó khăn, làm ảnh hưởng tới việc lập quy hoạch liên quan đến phạm vi trên biển, không rõ trách nhiệm và thẩm quyền quản lý biển giữa Trung ương và địa phương, giữa các địa phương có biển với nhau...
Để tranh thủ và phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của biển trong phát triển bền vững đất nước, khắc phục những bất cập nêu trên, ĐBQH Tạ Đình Thi đề xuất một số kiến nghị. Cụ thể, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện, cập nhật các quy hoạch, chú trọng vấn đề biển, đảo theo đúng chủ trương của Đảng, nhất là đối với hai quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia về biển; các quy hoạch ngành và quy hoạch tỉnh của 28 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có biển.
Đồng thời, cần sớm hoàn thiện và đưa vào vận hành cơ chế điều phối liên ngành, liên địa phương có biển. Tổ chức phân định ranh giới hành chính trên biển giữa các địa phương, làm cơ sở quản lý biển một cách hiệu quả theo đúng chiến lược, nghị quyết và theo các quy hoạch. Mặt khác, cần ưu tiên đầu tư cho công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, thông tin, dữ liệu biển và hải đảo theo các chương trình, đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phục vụ tốt cho công tác cập nhật, điều chỉnh quy hoạch...