Thời gian vừa qua, nhiều nước phát triển trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ đã có hợp tác chiến lược với Việt Nam trong ngành công nghiệp chip bán dẫn. Đặc biệt, sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ nâng cấp quan hệ ngoại giao lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, ngành công nghiệp chip bán dẫn tại Việt Nam đứng trước cơ hội lớn để phát triển.
Bộ GD-ĐT cho biết để đón đầu xu hướng này, việc chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao vô cùng quan trọng. Bộ GD-ĐT đã tổ chức khảo sát, tổng hợp, tập hợp số liệu để có được bức tranh ban đầu về khả năng, tiềm năng cũng như sự sẵn sàng của hệ thống giáo dục đào tạo, chuẩn bị cho nguồn nhân lực cần thiết cho ngành công nghiệp này.
Nhu cầu nguồn nhân lực thiết kế vi mạch sẽ có tiềm năng lớn
Phát biểu tại buổi nói chuyện chuyên đề về một số thực trạng và định hướng đào tạo nhân lực công nghiệp chip bán dẫn trong hệ thống cơ sở giáo dục đại học tại Việt Nam do Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 17.10, PGS.TS Nguyễn Thu Thủy, Vụ trưởng Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD-ĐT) cho biết Hoa Kỳ và một số nước khác đến nay đã cam kết tăng cường hỗ trợ cho Việt Nam để đào tạo và phát triển nguồn nhân lực công nghệ cao.
Các nước, trong đó có Hoa Kỳ đặc biệt ghi nhận tiềm năng to lớn của Việt Nam để trở thành một trong những quốc gia chủ chốt trong ngành công nghiệp bán dẫn vi mạch, ủng hộ sự phát triển nhanh chóng của hệ sinh thái bán dẫn vi mạch tại Việt Nam và sẽ tích cực hợp tác trong lĩnh vực này để nâng cao vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng trên toàn cầu.
PGS Thuỷ thông tin, hiện nay, có trên 50 doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) lớn đã đầu tư vào Việt Nam về công nghiệp vi điện tử và bán dẫn, trong đó lĩnh vực thiết kế vi mạch đòi hỏi nhiều nhất nguồn nhân lực chất lượng cao.
Dự kiến, sau chuyến thăm của Tổng thống Mỹ sẽ có thêm nhiều tập đoàn lớn đầu tư vào Việt Nam, trong đó chủ yếu yêu cầu nhân lực thiết kế vi mạch, hy vọng sẽ có đầu tư vào công nghiệp sản xuất. Do đó, nhu cầu về nguồn nhân lực thiết kế vi mạch sẽ có tiềm năng lớn.
Theo bà Thuỷ, thực tế, trước đây, thị trường này đã có nhu cầu, nhưng vẫn còn manh mún và ở dạng tiềm năng nên việc thu hút nguồn nhân lực không đơn giản. Không dễ dàng để thu hút sinh viên theo học các lĩnh vực STEM (4 khối ngành: Science - Khoa học, Technology - Công nghệ, Engineering - Kỹ thuật và Mathematic - Toán học), lĩnh vực công nghệ cao.
“Nếu thị trường không có tín hiệu mạnh mẽ, không có những cam kết về chính sách rõ nét, rất khó có thể thu hút được nguồn nhân lực, nhất là thí sinh giỏi”, PGS Thuỷ khẳng định.
Trong khi đó, nhu cầu nhân lực chất lượng cao của lĩnh vực này đang tăng. PGS Thuỷ cho biết, theo dự báo của một số chuyên gia kinh tế (ĐH Fullbright), trong 5 năm tới, nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực chip bán dẫn vào khoảng 20.000 người và 10 năm tới có thể lên tới khoảng 50.000 người từ trình độ đại học trở lên.
Theo thống kê hiện nay, số nhân lực thiết kế vi mạch chuyên nghiệp, chuyên môn hóa mới có khoảng 5.000 người. Giới chuyên ngành (đến từ các trường đại học kỹ thuật) nhận định, nhu cầu đào tạo trong một vài năm tới vào khoảng 3.000 người/năm (phù hợp với dự báo của các chuyên gia kinh tế: 3.000 x 5 năm + 5.000 = 20.000), trong đó số tốt nghiệp sau đại học chiếm ít nhất 30% (bao gồm cả kỹ sư bậc 7, thạc sĩ, tiến sĩ).
Số tuyển mới sinh viên đại học khối STEM tăng trung bình 10% mỗi năm
Nói về năng lực đào tạo hiện tại, PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ thông tin, trong những năm qua, Việt Nam đã có chính sách, truyền thông khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học mở rộng, phát triển các ngành đào tạo STEM, trong đó tập trung vào các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông (ICT), các ngành phục vụ nhân lực Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 - AI, Bigdata,…
Trong giai đoạn 2019-2022, số tuyển mới sinh viên đại học khối STEM tăng trung bình 10% mỗi năm, cao hơn so với mức tăng trưởng chung 6,5%. Các lĩnh vực có mức tăng trưởng trung bình hàng năm mạnh nhất là Máy tính và công nghệ thông tin (17,1%), Công nghệ kỹ thuật (10,6%).
“Như vậy, rõ ràng chúng ta đã bắt đầu có sự định hướng và các thí sinh giỏi cũng bắt đầu tìm đến với lĩnh vực này ngày càng nhiều hơn. Đây là một tín hiệu rất tốt”, PGS Thuỷ nói.
Về phía các trường đại học, theo PGS Thuỷ, các trường đại học kỹ thuật công nghệ hàng đầu của Việt Nam đã tương đối sẵn sàng về năng lực đào tạo đáp ứng yêu cầu về nhân lực trong lĩnh vực bán dẫn - vi mạch.
Theo đó, nhân lực về nghiên cứu, phát triển và sản xuất vật liệu bán dẫn: có các ngành đào tạo về hóa học, vật lý, vật liệu… Nhân lực về thiết kế và sản xuất vi mạch: các ngành đào tạo phù hợp nhất là kỹ thuật điện tử, điện tử-viễn thông; các ngành gần bao gồm kỹ thuật điện, điều khiển và tự động hóa, cơ điện tử,…
Việc đào tạo có thể tuyển mới đào tạo từ đầu, hoặc sinh viên học các ngành gần có thể chuyển đổi để học chuyên sâu trong 1-2 năm cuối; hoặc kỹ sư đã tốt nghiệp các ngành gần có thể học bổ sung các khóa đào tạo từ vài tháng tới 1-2 năm để đáp ứng được yêu cầu của lĩnh vực bán dẫn - vi mạch.
Số liệu thống kê của Bộ GD-ĐT cho thấy, số lượng sinh viên đại học tuyển mới và tốt nghiệp các nhóm ngành phù hợp (cần điều chỉnh chương trình đào tạo để bổ sung chuyên ngành sâu từ 1-2 học kỳ), ngành gần (cần học chuyển đổi, bổ sung từ 2-3 học kỳ) như sau: Các ngành phù hợp (điện tử-viễn thông, vi điện tử…): tuyển mới khoảng 6.000 và tốt nghiệp khoảng 5.000/năm (gia tăng trung bình 7%/năm). Các ngành gần (điện, cơ điện tử, tự động hóa, kỹ thuật máy tính…): tuyển mới khoảng 15.000 và tốt nghiệp khoảng 13.000/năm (gia tăng trung bình 10%/năm).
“Như vậy, nếu 30% sinh viên các ngành phù hợp và 10% các ngành gần theo học các chuyên ngành vi mạch bán dẫn, thì số lượng 3.000 người tốt nghiệp/năm là khả thi”, PGS Thuỷ nhận định.
3 nhóm chính sách thu hút sinh viên, nâng cao chất lượng đào tạo trong lĩnh vực bán dẫn - vi mạch
PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ chia sẻ, do thị trường lao động về lĩnh vực bán dẫn - vi mạch mới manh nha hình thành, chủ yếu ở dạng tiềm năng, thách thức lớn nhất là làm sao thu hút được sinh viên theo học các chuyên ngành này và nâng cao chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu khắt khe của các doanh nghiệp Mỹ.
Điều này rất cần các chính sách hỗ trợ đồng bộ, dẫn dắt từ phía Nhà nước. Bộ GD-ĐT đề xuất 3 nhóm chính sách,
Thứ nhất, nhóm chính sách hỗ trợ, khuyến khích người học, để nâng cao số lượng và chất lượng tuyển sinh đầu vào (bao gồm cả tuyển sinh học theo các chương trình đào tạo chuyên sâu, chương trình đào tạo chuyển đổi), như chính sách học bổng, miễn giảm học phí, tín dụng ưu đãi… nhất là để thu hút ít nhất 1.000 theo học sau đại học (hiện nay tỉ lệ học sau đại học các ngành này chỉ khoảng 4%). Để thực hiện nhóm chính sách này, bên cạnh Bộ GD-ĐT, cần các Bộ Ngành khác cùng hỗ trợ.
Thứ hai, nhóm chính sách hỗ trợ, đầu tư đột phá để tăng cường năng lực đào tạo và nghiên cứu (trước hết là năng lực đội ngũ giảng viên, trang thiết bị thí nghiệm và công cụ phần mềm thực hành, thí nghiệm và mô phỏng).
Thứ ba, nhóm chính sách khuyến khích, thúc đẩy hợp tác đại học – viện nghiên cứu - doanh nghiệp, trong nước và ngoài nước, nhất là với các trường đại học, doanh nghiệp đối tác của Hoa Kỳ (có tiềm năng đầu tư tại Việt Nam).
“Chúng tôi nghĩ rằng những chính sách đột phá này sẽ đáp ứng được nhu cầu cũng như dự báo mà chúng ta đã đặt ra. Nếu chỉ dựa vào năng lực hiện tại của hệ thống sẽ không đủ để đáp ứng cho nhu cầu nhân lực trong 10 năm tới”, PGS Thuỷ cho hay.
2 đề án quan trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghiệp chíp bán dẫn
Về các vấn đề đang triển khai và cần tập trung trong thời gian tới, theo PGS Thuỷ, Bộ GD-ĐT đang chủ trì xây dựng để trình Thủ tướng vào cuối năm nay 2 đề án quan trọng.
Thứ nhất là Đề án đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghệ cao, trong đó đề xuất các chính sách hỗ trợ khuyến khích chung cho phát triển nguồn nhân lực các lĩnh vực STEM và công nghệ cao nói chung, trong đó có lĩnh vực điện tử, bán dẫn, vi mạch.
Thứ hai là Đề án xây dựng một số trung tâm nghiên cứu, đào tạo xuất sắc về công nghệ 4.0, trong đó sẽ đề xuất các cơ chế, chính sách và dự án đầu tư để để chuẩn bị hình thành các nhóm nghiên cứu về công nghệ cao, gắn với đào tạo sau đại học ở các lĩnh vực công nghệ cao.
“Trong chuyến đi tháp tùng Thủ tướng vừa qua, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT đã ký Bản ghi nhớ hợp tác với Intel về phát triển nguồn nhân lực cho các ngành công nghệ cao, trong đó có lĩnh vực vi mạch bán dẫn.
Hiện nay, Bộ GD-ĐT đang xây dựng một Kế hoạch hành động thúc đẩy triển khai đào tạo và nghiên cứu trong các lĩnh vực công nghệ bán dẫn, vi mạch, sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 10, trong đó sẽ chỉ đạo và hỗ trợ các cơ sở giáo dục đại học hợp tác thành một liên minh, chia sẻ và sử dụng chung các nguồn lực, năng lực trong đào tạo và nghiên cứu”, PGS.TS Nguyễn Thu Thuỷ thông tin thêm.
Được biết, ngày 19.10 tới đây, Bộ GD-ĐT cũng sẽ phối hợp với 5 cơ sở giáo dục đại học công nghệ hàng đầu của Việt Nam (gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Đại học Đà Nẵng, Đại học Bách khoa Hà Nội và Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông) tổ chức hội thảo về nguồn nhân lực chất lượng cao trong ngành công nghiệp chíp bán dẫn.
Tham dự hội thảo có gần 40 cơ sở đào tạo, cơ sở giáo dục đại học trên cả nước đào tạo mạnh về những ngành gần, ngành phù hợp với lĩnh vực công nghiệp chíp bán dẫn và sự tham gia của một số Bộ Ngành.