Hội nhập của giáo dục đại học Việt Nam đang từng bước phát triển
Ngày 12.10.2022, Tổ chức xếp hạng Times Higher Education công bố kết quả xếp hạng đại học (ĐH) Thế giới 2023 (THE WUR 2023). Theo đó, Việt Nam có 6 cơ sở giáo dục đại học (CSGD ĐH) lọt vào bảng xếp hạng THE WUR 2023. Kết quả xếp hạng cho thấy sự hội nhập của giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam với GDĐH thế giới đang từng bước phát triển và gia tăng đáng kể.
Việc tham gia các bảng xếp hạng không phải chỉ để làm thương hiệu, mà còn vì những mục tiêu như điều chỉnh, chuẩn hóa các chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra, chất lượng và hiệu quả đào tạo, nghiên cứu khoa học… Song song với các Bộ chỉ số đo lường đánh giá các trường ĐH trên thế giới, Bộ GD-ĐT Việt Nam đã ban hành Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng CSGD và chương trình đào tạo (CTĐT) áp dụng cho hoạt động kiểm định chất lượng (KĐCL) giáo dục trong nước.
183 cơ sở giáo dục trong số 242 trường đại học của Việt nam và 952 CTĐT trong số trên 3000 CTĐT thông qua việc tham gia tự đánh giá và KĐCL đã công khai chất lượng giáo dục của nhà trường, thực hiện trách nhiệm giải trình trước xã hội.
Việc triển khai công tác KĐCL không chỉ giúp cho các trường đại học tham gia vào một quy trình đánh giá khách quan các điều kiện đảm bảo chất lượng của Nhà trường mà còn là công cụ để tiếp cận các xu hướng của giáo dục đại học thế giới.
Dựa trên việc phân tích các dữ liệu thống kê kết quả KĐCL CSGD và CTĐT của các trường ĐH tại Việt Nam thời gian gần đây, có thể nhận dạng những thành tựu cốt lõi của GDĐH Việt Nam đặt trong các xu hướng của GDĐH thế giới hiện nay như sau:
Xu hướng thứ nhất: Chương trình giảng dạy chú trọng các năng lực cần thiết trong môi trường làm việc tương lai
Hiện nay, không chỉ Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đang phải đối mặt với sự thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn, kỹ năng trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh ngày càng tăng.
Do đó, để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho thị trường lao động, tăng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp làm việc đúng với ngành nghề được đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, mục tiêu đào tạo cần thay đổi theo hướng thúc đẩy sáng tạo, phát triển năng lực cá nhân; chương trình và phương thức đào tạo cần được đổi mới; năng lực của đội ngũ giảng viên trong việc thiết kế và phát triển chương trình giảng dạy cần được nâng cao.
Kết quả KĐCL 392 CTĐT gần đây của các trường ĐH cho thấy, việc thiết kế và phát triển chương trình dạy học đảm bảo cho người học đạt được chuẩn đầu ra trong thời gian ngắn nhất đã bước đầu đạt được như kỳ vọng.
Hơn 40% CTĐT được KĐCL đạt yêu cầu đối với tiêu chí có liên quan đến mức đóng góp của mỗi học phần vào việc đạt được chuẩn đầu ra của CTĐT và các chuẩn đầu ra này đã được sự góp ý của các nhà tuyển dụng.
Xu hướng thứ hai:Áp dụng các phương pháp giảng dạy dựa trên khoa học của việc học tập và chấp nhận phương pháp học tập chủ động
Những thay đổi về nội dung đào tạo đòi hỏi những thay đổi tương xứng về cách tiếp cận phương pháp dạy và học trong cơ sở GDĐH. Việc đóng cửa trường học và đại học trong đại dịch Covid-19 đã làm sáng tỏ điều này.
Người học không nhất thiết phải đến giảng đường để nghe giáo sư thuyết giảng, không cứ phải đến phòng thí nghiệm để thực hành, thay vào đó, công nghệ sẽ giúp người học thực hành, trải nghiệm và thu nhận kiến thức ngay tại nhà và ngay trước mắt.
Những cố gắng ban đầu của một số trường đại học nước ta nhằm đưa công nghệ thực tế ảo và trí tuệ nhân tạo vào phục vụ công tác tuyển sinh như trường Đại học Kinh tế quốc dân hoặc hỗ trợ thiết kế và phát triển chương trình dạy học dựa trên chuẩn đầu ra của Trường đại học Ngoại ngữ, Đại học quốc gia Hà Nội là những tiến bộ cần được ghi nhận.
Vai trò của công nghệ trong học tập đại học không chỉ trang bị thông tin cho sinh viên mà còn là cầu nối để tiếp cận với nền giáo dục chất lượng, giúp bỏ qua những hạn chế về thời gian và địa điểm, thúc đẩy cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người, khuyến khích sự sáng tạo, tò mò, hợp tác và cá thể hóa việc học tập.
Xu hướng thứ ba: Mở rộng địa điểm và thời gian học tập cho người học
Khi nền giáo dục đang quen với cách dạy - học truyền thống, thầy đọc trò chép hàng ngày trên giảng đường, trước tác động mạnh mẽ của đại dịch, các trường đại học Việt nam đã kịp thích ứng với việc đột ngột chuyển hướng sang giảng dạy trực tuyến với phương pháp dạy và học hoàn toàn thay đổi, tuy rằng kết quả học tập ít nhiều bị ảnh hưởng.
Việc giảng dạy trực tuyến đã buộc phải nhìn nhận lại các khái niệm về thời gian và không gian trong thế giới giáo dục, phải mở rộng các hình thức học kết hợp. Học tập kết hợp không chỉ có nghĩa là kết hợp một lớp học ảo và lớp thực, mà còn cho phép học tập thực sự nhập vai và trải nghiệm, cho phép sinh viên áp dụng các khái niệm đã học trong lớp học vào thế giới thực.
Vì vậy, thay vì “học ở bất kỳ chỗ nào” cung cấp tính linh hoạt cho các CTĐT, các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam bằng cách gia tăng tỷ lệ các học phần tự học đang chuyển dần sang cách tiếp cận “học từ mọi nơi” và “học từ mọi người” (học thầy không tày học bạn) cung cấp sự hòa nhập trong khóa học, lớp học. Những thay đổi này cũng được ghi nhận bước đầu trong kết quả kiểm định chất lượng.
Xu hướng thứ tư:Hỗ trợ người học sẵn sàng cho lực lượng lao động, được chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần
Xã hội luôn kỳ vọng đối với sản phẩm đào tạo của một nhà trường có uy tín khi ra trường sẽ là những công dân gương mẫu, là những người lao động giỏi trên mọi cương vị công tác, có tinh thần sáng nghiệp và ý thức làm chủ để trở thành những nhà quản lý, doanh nhân xuất sắc, những nhà khoa học, công nghệ, văn hóa nghệ thuật tài năng cống hiến thật nhiều cho đất nước. Muốn vậy, sinh viên tốt nghiệp không chỉ cần được trang bị đầy đủ năng lực mà còn cần phải được chăm sóc tốt về sức khỏe thể chất và tinh thần.
Kết quả KĐCL 392 CTĐT và 52 CSGD cho thấy, các hoạt động hỗ trợ người học của các trường đại học Việt Nam luôn đạt mức cao nhất so với các tiêu chuẩn khác trong Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng tương ứng.
Hầu hết các CTĐT được đánh giá đều đáp ứng yêu cầu về chính sách tuyển sinh, hệ thống giám sát học tập của sinh viên, hoạt động hỗ trợ học tập, hỗ trợ việc làm và việc xác lập, giám sát, đối sánh tỉ lệ có việc làm sau tốt nghiệp.
Xu hướng thứ năm:Đổi mới quản trị đại học
Trên thế giới, việc quản trị GDĐH trong trường ĐH thông qua thiết chế Hội đồng trường (HĐT) là khá phổ biến, dù ở các nước phát triển, đang phát triển hay các nước có nền kinh tế chuyển đổi. HĐT vừa là tổ chức quản trị, đại diện cho quyền sở hữu của các bên liên quan, vừa là thiết chế quyền lực cao nhất trong CSGD ĐH công lập, dựa trên ba trụ cột cơ bản là quyền quyết định, quyền ban hành và quyền giám sát.
Thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về tự chủ đại học, luật hóa vai trò của HĐT, các trường ĐH đã từng bước tổ chức lại hệ thống quản trị dựa trên nền tảng của HĐT và bước đầu đã thu được các kết quả mong muốn ở một số cơ sở GDĐH.
Thách thức đối với giáo dục đại học Việt Nam
Có thể nói những đổi mới trong những năm qua đã tạo cho GDĐH Việt Nam những chuyển biến ban đầu tích cực phù hợp với xu thế chung của GDĐH toàn cầu. Tuy vậy, bối cảnh phát triển kinh tế nhanh chóng của đất nước, toàn cầu hóa, sức cạnh tranh của các cơ sở giáo dục đại học nước ngoài ngay tại Việt Nam và những hạn chế được nhận dạng trong quá trình kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục và chương trình đào tạo có thể nêu ra những đòi hỏi và cũng là những thách thức đối với giáo dục đại học Việt Nam trong thời gian tới.
Thứ nhất, chương trình giảng dạy của CSGD là yếu tố cốt lõi trong việc tạo ra một đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho xã hội và năng lực của sinh viên tốt nghiệp, là thước đo chất lượng học thuật, uy tín đào tạo của các trường ĐH.
Vì vậy, các cơ sở GDĐH cần tiếp tục chú trọng phát triển và nâng cao năng lực xây dựng, thiết kế chương trình giảng dạy dựa trên chuẩn đầu ra của đội ngũ giảng viên nhằm có được những CTĐT mang tính bản sắc, hấp dẫn người học và nhà tuyển dụng, trang bị cho sinh viên các năng lực cần thiết đáp ứng môi trường làm việc tương lai.
Thứ hai, đổi mới phương pháp dạy, học và kiểm tra đánh giá trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, đặc biệt là hiện đại hóa việc học của thế hệ trẻ theo hướng cá thể hóa nhằm khơi dạy tiềm năng trong mỗi sinh viên, học viên để các em say mê học tập và phát triển nghề nghiệp. Sự thích ứng và chấp nhận phương pháp học tập chủ động của người học đã trở thành xu thế tất yếu trong GDĐH hiện nay..
Thứ ba, không gian và thời gian học tập của người học đã có sự chuyển dịch mạnh mẽ, không còn bó hẹp trong giảng đường và sách vở. Người học có thể học từ mọi nơi và học từ mọi người.
Do vậy, các cơ sở GDĐH cần đổi mới tư duy và nhận thức, đầu tư các công nghệ dạy học tiên tiến, hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo, công nghệ thực tế ảo trên cơ sở đẩy mạnh chuyển đổi số để đáp ứng yêu cầu của dạy học hiện đại và nhu cầu học tập của người học.
Thứ tư, nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo là hoạt động không thể tách rời của một trường ĐH đúng nghĩa. Nghiên cứu, sáng tạo là nền tảng cho kỹ năng học tập suốt đời và khả năng khởi nghiệp của người học. Muốn vậy, trường ĐH cần đẩy mạnh và đầu tư xứng đáng cho nghiên cứu khoa học và đổi mới sáng tạo của người học.
Thứ năm, cần nâng cao năng lực quản lý nhà nước và quản trị đại học, quy hoạch mạng lưới CSGD ĐH; bảo đảm tài chính bền vững và tăng cường tính minh bạch; vai trò quản trị và quản lý trong nhà trường cần được tách bạch rõ ràng; cần ban hành quy chế hoạt động, quy chế phối hợp cụ thể giữa HĐT và Ban Giám hiệu để đảm bảo các điều kiện cho một nhà trường phát triển thành công.
Do vậy, bước vào năm 2023, các cơ sở giáo dục đại học, cần tạo dựng một niềm đam mê học tập và sáng tạo trong sinh viên và giảng viên, thực hiện chuyển đổi số để đáp ứng nhu cầu chuyển đổi số quốc gia và để hiện đại hóa việc học tập của thế hệ trẻ.
Cần thay đổi để tạo ra được các CTĐT có sức hấp dẫn thị trường lao động chuyển dịch cân bằng cung cầu nhân lực và cần tăng tốc để cạnh tranh trong thị trường cung cấp nhân lực trong nước và quốc tế dựa trên việc nâng cao đẳng cấp của đội ngũ cán bộ giảng viên và đổi mới quản trị đại học.
GS.TSKH Đặng Ứng Vận Trường Đại học Hòa Bình và Nguyễn Thái An Trường Đại học Dược Hà Nội