Dự thảo Luật Đường sắt (sửa đổi):Đưa vào Luật những chính sách đột phá và cần thiết nhất
Giải trình, tiếp thu ý kiến thẩm tra và ý kiến đại biểu về Tờ trình bổ sung dự án Luật Đường sắt (sửa đổi), Chính phủ cho biết, đã nghiên cứu kỹ lưỡng, rà soát các cơ chế, chính sách đặc thù tại dự thảo Nghị quyết để đưa vào Luật những chính sách cần thiết nhất, nhằm tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt.
Bổ sung, làm rõ hơn tác động về kinh tế - xã hội của giải pháp chính sách lựa chọn
Theo Tờ trình bổ sung dự án Luật Đường sắt (sửa đổi), dự thảo Luật Đường sắt (sửa đổi) đã được chỉnh lý nhằm bổ sung 23 cơ chế, chính sách tại dự thảo Nghị quyết của Quốc hội thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để đầu tư phát triển hệ thống đường sắt vào Chương quy định về đầu tư xây dựng đường sắt và Điều 5 của dự thảo Luật, trong đó, 4 chính sách đã có trong dự thảo Luật trình Quốc hội. Dự thảo Luật mới gồm 4 chương và 84 điều.

Thẩm tra nội dung này, một số ý kiến trong Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, các cơ chế, chính sách được bổ sung vào dự thảo Luật được đánh giá là khác với quy định của pháp luật hiện hành, tuy nhiên, Chính phủ chưa đề xuất giải pháp cụ thể để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Mặt khác, về nội dung đánh giá tác động về kinh tế - xã hội, các chính sách chỉ được đánh giá chung về tích cực và tiêu cực, chưa có số liệu phân tích, đánh giá cụ thể chi phí, lợi ích (về ngắn hạn, trung hạn và dài hạn của người dân cũng như Nhà nước), chưa rõ cơ sở, căn cứ của nội dung đánh giá, chưa có đánh giá tác động về môi trường.
Ngoài ra, ý kiến của cơ quan chủ trì thẩm tra cũng nhận thấy, các chính sách mới được bổ sung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, đẩy nhanh việc triển khai các dự án đường sắt, trong đó có sự tham gia của doanh nghiệp có vốn ngoài nhà nước. Tuy nhiên, Báo cáo chưa thấy đề cập đến kinh nghiệm quốc tế trong đầu tư hạ tầng đường sắt được nêu tại Phụ lục 11 bản Báo cáo Tổng kết 5 năm thi hành Luật Đường sắt 2017 số 2112/BC-BGTVT ngày 20/2/2024 của Bộ Giao thông Vận tải, nay là Bộ Xây dựng. Đặc biệt, báo cáo chưa có đánh giá về tác động tích cực, tiêu cực và nêu các giải pháp cụ thể trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm tuân thủ đúng Quy định số 178-QĐ/TW ngày 27/6/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác xây dựng pháp luật, cũng như nội dung yêu cầu tại văn bản của Văn phòng Trung ương Đảng thông báo kết luận ý kiến của Bộ Chính trị.
Giải trình, làm rõ nội dung này, Báo cáo giải trình, tiếp thu của Chính phủ cho biết, về Báo cáo đánh giá tác động chính sách, Chính phủ đã tiếp thu và bổ sung giải pháp cụ thể để bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, làm rõ hơn tác động tích cực, tiêu cực về kinh tế - xã hội của giải pháp chính sách lựa chọn, chính sách được quy phạm hóa cũng đã đáp ứng được yêu cầu về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, bảo đảm tuân thủ đúng Quy định số 178-QĐ/TW của Bộ Chính trị cũng như nội dung yêu cầu tại văn bản của Văn phòng Trung ương Đảng thông báo kết luận ý kiến của Bộ Chính trị.
Bảo đảm khả thi, chặt chẽ, hiệu quả
Về việc luật hóa các chính sách trong các nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt để đầu tư phát triển hệ thống đường sắt, Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu kỹ lưỡng các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt; các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt quy định trong dự thảo Luật cần bảo đảm 3 yếu tố: khả thi, chặt chẽ, hiệu quả.
Tiếp thu ý kiến của cơ quan thẩm tra, Chính phủ đã nghiên cứu kỹ lưỡng, rà soát các cơ chế, chính sách đặc thù tại dự thảo Nghị quyết để đưa vào Luật những chính sách cần thiết nhất, mang tầm luật để tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt, thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Để bảo đảm khả thi, chặt chẽ, hiệu quả, Chính phủ đã chỉ đạo rà soát 23 chính sách trong dự thảo Nghị quyết cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt; chỉ luật hóa 18 chính sách và đề nghị đưa vào Nghị quyết chung kỳ họp 3 chính sách (về vật liệu xây dựng, bãi đổ thải, chuyển mục đích sử dụng rừng và tạm sử dụng rừng) và 2 chính sách (về huy động và bố trí nguồn vốn đầu tư đường sắt quốc gia, huy động và bố trí nguồn vốn đầu tư đường sắt quốc gia) sẽ được cấp có thẩm quyền quyết định khi phê duyệt chủ trương đầu tư.
Giới hạn phạm vi áp dụng chỉ cho các dự án quan trọng quốc gia
Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cũng đề nghị, cần luật hóa theo hướng giới hạn phạm vi áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù, đặc biệt. Theo đó, rà soát, nghiên cứu quy định một chương riêng về các cơ chế này áp dụng cho một số dự án mang tính quan trọng, cần thiết, cấp bách theo yêu cầu của cấp có thẩm quyền, không phổ quát chung cho tất cả các dự án đường sắt.
Tiếp thu nội dung này, Chính phủ đã chỉnh lý theo hướng chỉ luật hóa 18 chính sách như đã báo cáo tại mục 2.1.1 vào Mục 2 Chương II dự thảo Luật; giới hạn phạm vi áp dụng chỉ cho các dự án quan trọng quốc gia và các dự án do Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư. Đối với 3 chính sách về vật liệu xây dựng, bãi đổ thải, chuyển mục đích sử dụng rừng và tạm sử dụng rừng, đề nghị đưa vào Nghị quyết chung của Kỳ họp thứ Chín và phạm vi áp dụng cho các dự án đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, Hải Phòng - Hạ Long - Móng Cái.
Liên quan đến nghiên cứu, bổ sung các quy định nhằm thể chế hóa ý kiến cấp có thẩm quyền, Chính phủ đã tiếp thu và chỉnh lý Chương II dự thảo Luật theo hướng tách các cơ chế, chính sách đặc thù thành một mục riêng và chỉ áp dụng cho các dự án đầu tư xây dựng mới đường sắt quốc gia, đường sắt địa phương.
Với đề nghị có biện pháp Giám sát độc lập, Quốc hội và các cơ quan kiểm toán, thanh tra tăng cường giám sát định kỳ việc thực hiện các cơ chế đặc thù; có thể lập nhóm công tác liên ngành giám sát các dự án trọng điểm, Chính phủ đã bổ sung trong dự thảo Luật khoản 4 Điều 58 về Tổ chức thực hiện quy định về giám sát tối cao của Quốc hội đối với các dự án đường sắt, đặc biệt là các dự án đường sắt quan trọng quốc gia. Dự thảo Luật cũng đã có quy định tại khoản 1 Điều 36 về Bảo đảm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; quy định tổng mức đầu tư phải được Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán tại khoản 2 Điều 36.
Về trách nhiệm báo cáo, cơ quan chủ trì thẩm tra đề nghị, quy định rõ chế độ báo cáo Quốc hội về kết quả thực hiện các cơ chế đặc thù sau một thời gian nhất định (ví dụ 3 - 5 năm), qua đó đánh giá hiệu quả, kịp thời sửa đổi hoặc bãi bỏ những cơ chế không phát huy tác dụng.
Tiếp thu ý kiến này, Chính phủ đã bổ sung khoản 4 Điều 58 về Tổ chức thực hiện quy định về giám sát tối cao của Quốc hội đối với các dự án đường sắt, đặc biệt là các dự án đường sắt quan trọng quốc gia. Bên cạnh đó, dự thảo Luật cũng đã có quy định tại Điều 36 về Bảo đảm phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Có thể thấy, về cơ bản các ý kiến của cơ quan thẩm tra và ý kiến của đại biểu Quốc hội về dự án Luật Đường sắt (sửa đổi) đã được Chính phủ nghiên cứu thấu đáo, kỹ lưỡng, giải trình đầy đủ, bảo đảm đầy đủ cả về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn. Với sự nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý và hoàn thiện của cơ quan chủ trì thẩm tra, cùng sự ủng hộ, đồng thuận của các đại biểu Quốc hội, dự án Luật bảo đảm yêu cầu của một dự luật trình Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp, đáp ứng sự phát triển của đất nước nói chung và ngành đường sắt nói riêng trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.