Quảng Bình nỗ lực giảm nghèo bền vững

Bài 1:  Tạo động lực để người nghèo vươn lên

- Thứ Ba, 23/08/2022, 07:06 - Chia sẻ

Giai đoạn 2016 - 2020, cùng với cả nước, Quảng Bình đã thực hiện hiệu quả mục tiêu giảm nghèo bền vững, góp phần bảo đảm an sinh, tạo động lực cho phát triển. Tuy nhiên, những thay đổi về tiêu chí đo lường trong giai đoạn mới và tác động của dịch bệnh Covid-19 cũng đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ, đòi hỏi những nỗ lực vượt bậc của chính quyền, người dân.

Nhiều mô hình, sinh kế trên địa bàn tỉnh đã mang lại hiệu quả
Nhiều mô hình, sinh kế trên địa bàn tỉnh đã mang lại hiệu quả

Thời gian qua, cấp ủy, chính quyền tỉnh Quảng Bình luôn hỗ trợ, đồng hành với người nghèo, cận nghèo theo phương châm “trao cần câu chứ không trao con cá”. Rất nhiều chính sách được ban hành, triển khai hiệu quả đã tạo động lực để người dân vươn lên thoát nghèo.

Lồng ghép các nguồn vốn hỗ trợ 

Về thôn Pháp Kệ, xã Quảng Phương, huyện Quảng Trạch, hỏi anh Nguyễn Đức Cường ai cũng biết bởi anh là điển hình vươn lên thoát nghèo ở địa phương. Theo chia sẻ của anh Cường, mỗi năm gia đình anh nuôi từ 1 - 2 lượt chim cút đẻ, 300 - 400 ngan, gà cung ứng giống cho người dân trong vùng… Bên cạnh làm trang trại kinh tế tổng hợp, anh còn trồng sen bán hạt và chăm sóc 2 mẫu lúa. Nhờ đó, mỗi năm gia đình thu nhập khoảng 200 triệu đồng.

Còn với anh Hồ Minh ở bản Lâm Ninh, xã Trường Xuân, huyện Quảng Ninh, từ nguồn vốn vay ngân hàng, anh đầu tư mua bò, trâu, dê núi và giống keo để trồng rừng. Nhờ đó, mỗi năm gia đình thu khoảng 150 triệu đồng và đã thoát nghèo (năm 2018). Đặc biệt, giai đoạn 2017 - 2021, anh được UBND tỉnh Quảng Bình tặng bằng khen vì đã có thành tích trong phong trào thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi.

Cũng như anh Hồ Minh, gia đình ông Trần Văn Thuận (thôn Kim Sen), trước đây là hộ nghèo của xã Trường Xuân. Nhờ được tham gia các lớp tập huấn về trồng cây ăn quả, ông Thuận quyết định chuyển đổi 1,2ha đất đồi trồng keo sang trồng hồ tiêu; trồng thêm 10ha keo tràm, 8ha thông lấy nhựa, nhiều loại cây ăn quả và nuôi thêm 35 đàn ong lấy mật. Với mô hình chăn nuôi kết hợp trồng trọt, sau khi trừ chi phí, mỗi năm ông Thuận thu về gần 200 triệu đồng.

Hay như với gia đình ông Cao Tiến Sơn ở xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, nhờ nguồn vốn của các chương trình, dự án và được ưu tiên hỗ trợ con giống, kỹ thuật sản xuất nên đến nay gia đình ông đã thoát nghèo… “Gia đình ông Sơn là một trong những hộ dân được xã tập trung hỗ trợ thoát nghèo. Nếu như trước đây, các nguồn hỗ trợ sản xuất từ các chương trình, dự án ưu đãi của Đảng và Nhà nước thường được chia đều cho tất cả người dân thì những năm gần đây, xã đã thay đổi cách làm. Thay vì hỗ trợ dàn trải, xã tập trung nguồn vốn cho một số hộ nghèo (luân phiên) để bà con có số tiền lớn hơn mua cây, con giống có giá trị, đầu tư sản xuất”, Chủ tịch UBND xã Hóa Sơn Đinh Hồng Tuyên chia sẻ.

Thực tế, để giảm nghèo và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân, mỗi địa phương ở Quảng Bình có những cách làm khác nhau phù hợp với thực tiễn. Đại diện lãnh đạo UBND huyện Minh Hóa cho biết, những năm qua, huyện đã lồng ghép các nguồn vốn (Chương trình 30a, 135…) hỗ trợ người dân mua các giống vật nuôi như: Bò lai sind, lợn ngoại và dành 5,5 tỷ đồng phát triển chăn nuôi; hỗ trợ cây giống phát triển trồng rừng kinh tế; khuyến khích người dân phát triển nghề nuôi ong lấy mật. Với những cách làm cụ thể, mỗi năm, huyện giảm được khoảng 4% hộ nghèo…

Cùng với đó, huyện đã chọn giải pháp xuất khẩu lao động và cơ cấu lại sản xuất nông nghiệp gắn với xây dựng NTM để giúp người dân thoát nghèo. Đơn cử, trong sản xuất nông nghiệp, huyện ưu tiên phát triển đàn bò lai để nâng cao giá trị chăn nuôi và thu nhập cho nông dân… Với những bước đi phù hợp, đến nay, Tuyên Hóa là địa phương dẫn đầu tỉnh về tỷ lệ bò lai sind (hơn 70% tổng đàn).

Thay đổi tư duy, phương thức hỗ trợ

Với mục tiêu thu hẹp khoảng cách chênh lệch trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng, miền, đặc biệt ở khu vực miền núi, vùng đồng bào DTTS, những năm qua, tỉnh Quảng Bình đã triển khai nhiều chính sách đầu tư lớn của Đảng và Nhà nước như: Quyết định số 1722/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020; Chương trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, an toàn khu, các thôn, bản đặc biệt khó khăn, Nghị quyết 30a giảm nghèo nhanh, bền vững… Thông qua đó, người nghèo đã tiếp cận thuận tiện hơn các chính sách trợ giúp của Nhà nước; cơ sở hạ tầng nông thôn được tăng cường, đời sống của người dân từng bước được cải thiện.

Bên cạnh đó, thông qua các chính sách về dân tộc, Đảng và Nhà nước đã đầu tư nhiều kinh phí để xây dựng các mô hình sinh kế nhằm góp phần phát triển sản xuất, chăn nuôi cho người dân. Nhiều mô hình, sinh kế mang lại hiệu quả như: Nuôi ong (huyện Minh Hóa); trồng keo (huyện Tuyên Hóa); các trang trại chăn nuôi lợn, gà, vịt (huyện Bố Trạch); mô hình lúa - cá, trồng mướp đắng, bí đỏ (huyện Lệ Thủy)…

Theo số liệu của Sở LĐ, TB và XH tỉnh Quảng Bình, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2016 - 2020 (áp dụng cho năm 2021) đã giảm từ 14,42% (năm 2016) xuống còn 3,24% (năm 2021); tính theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2021 - 2025 (áp dụng cho giai đoạn 2022 - 2025) hộ nghèo năm 2021 chiếm 6,52%... Thành tích nổi bật nhất trong công tác giảm nghèo ở Quảng Bình thời gian qua là nhiều hộ nghèo đã thay đổi được nếp nghĩ để có cách làm mới vươn lên thoát nghèo.

“Có được kết quả này nhờ thay đổi tư duy về giảm nghèo, chuẩn nghèo ở các cấp, ngành và mỗi địa phương, từ cán bộ cơ sở đến người dân. Phương thức hỗ trợ hộ nghèo chuyển từ cho không sang trợ giúp một phần, có đối ứng. Các địa phương từng bước xây dựng nhiều mô hình liên kết sản xuất nhằm tạo điều kiện cho người nghèo sử dụng hiệu quả chiếc “cần câu”, giảm nghèo bền vững”, đại diện Sở LĐ, TB và XH tỉnh chia sẻ.

Diệp Anh