Đào xưa lác đác
Tản văn của Chí Dũng
Vậy ra không phải là có tiền mua tiên cũng được. Mặc cho kẻ có tiền kia lăn lóc vật nài, Tiên Đào của gã ngự vững trên bàn thạch bích, khẳng định ngôi Vương giữa rừng đào Nhật Tân đang khoe sắc dưới gió xuân.
Đừng nói tới dân chơi đào tay mơ, gã dám chắc tới 99,9% số kẻ được coi là kỳ cựu trong nghề chơi đào Tết chưa từng hữu duyên hạnh ngộ cùng Nàng Đào Thất Thốn.
![]() Bãi đào giờ đây không còn đào phai? Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn |
Nói chuyện đào, hãy bắt đầu từ hạng xoàng nhất trong thứ bậc chơi đào là Đào Dăm - đào thải.
Ngữ nghĩa của chữ tiếng Việt “đào thải “có lẽ bắt nguồn từ việc thải đào trong vườn đào mà ra. Đào Thải thường có số phận thảm lắm. Cho dù cùng là kiếp Đào, phận Đào Thải bị cắt, bị bẻ, bị giẫm, bị đạp nơi đầu bờ vạt ruộng. Thân xác gầy gò bị phơi dưới nắng hanh hao khô quắt.
Cứu một mùa hoa, chủ vườn đào chỉ còn một cách là sưởi ấm cho Đào. Mỗi khi chiều tà, thường chủ vườn gây những đống rấm nho nhỏ sưởi ấm cho Đào, cho người canh vườn Đào. Vậy là Đào Thải bị hóa kiếp thành củi khô đem thân xác sưởi ấm làng Đào.
Ở các làng thuần nông có mót lúa, mót khoai, ở làng Đào cũng có câu chuyện mót Đào.
“Chỗ này gặp khách cũng được dăm mười nghìn đấy chú”.
Vào tay nhà khó, nhành Đào Thải mót được bỗng được nâng niu yêu chiều như một cứu vớt cho những ngày giáp Tết đắt đỏ. Tý tiền còm năm - mười nghìn bạc cho một nắm dăm đào. Chút tiền mọn chỉ như nhúm gạo bà lão bỏ thêm vào nồi cơm giúp con, giúp cháu.
Đào Dăm.
Trong cái rét buốt như kim châm, bà lão móm mém kể cho gã nghe chuyện làng Đào của bà ngày xưa.
Ngày đó, thú chơi Đào tao nhã bị người ta coi như một loại tàn dư phong kiến, của lũ tạch tạch xè (tiểu tư sản). Thú chơi Đào không hiểu sao lại bị gán cho là thú chơi của bọn nhà giàu, bọn bóc lột ăn trên ngồi trốc.
Quả là trời không phụ lòng người, cây đào tồn tại được qua thời bao cấp bung mình hồi sinh vào thời buổi kinh tế thị trường. Cùng với kinh tế Việt Nam, cây đào bừng lên sức sống mỗi dịp Tết đến xuân về, trang điểm cho Hà Nội thêm rực rỡ sức xuân.
Kể đến đây giọng bà chùng xuống, bàn tay bó Đào chợt ngưng lại. Bàn tay gạt mấy sợi tóc bạc lơ thơ xòa xuống mặt, bà như muốn xua đi một ký ức buồn. Gã hiểu, bà đang đau lòng khi nhớ lại vùng đất của làng Đào bỗng chốc biến thành vùng đô thị đắt giá. Mấy nghìn đô một mét đất vườn Đào, trồng Đào biết mấy mươi đời mới có nổi số tiền khủng đó. Là bậc sinh thành, mấy ai có thể cầm lòng nhìn con cháu lam lũ cực nhọc chăm sóc Đào cả năm, rồi cứ mỗi dịp xuân về lại đánh bạc với nắng với mưa với trời với đất.
Không có đất, con cháu phá ngang đi làm lao động phổ thông trên phố, không còn ai theo nghề trồng Đào. Ông lão vắn số sớm quy tiên làm bà suy sụp. Thèm Đào, mỗi năm Tết đến bà lại tha thẩn ra vườn Đào bãi sông Hồng cho đỡ nhớ, đỡ thèm, để nhớ lại một thời xa lắc.
Vườn đào Nhật Tân giờ hao hao giống kiểu nông trường, nông trang tập thể thời Liên Xô cũ. Có khác là chỉ khác bên trong những ô vuông được bê tông hóa vẫn là con người Nhật Tân. Vẫn chỉ là những ông chủ bà chủ vườn đào với cách làm đào theo kiểu công nghiệp hóa nửa vời.
Thứ chất đất đặc biệt làm nảy ra dòng hoa Đào Nhật Tân nổi tiếng. Dòng Đào đã sản sinh ra cành đào nổi tiếng, được vua Quang Trung chuyển vào tận miền trong tặng cho người vợ yêu Ngọc Hân công chúa.
Người chơi Đào giờ cũng đông hơn và cũng tạp hơn. Phần nhiều chỉ cốt có chút mầu đỏ đỏ hồng hồng trong nhà mỗi dịp xuân về.
Một chút dễ dãi, một chút tham rẻ giúp Đào Dăm, thứ Đào bị thải loại vẫn còn có chỗ đứng trong lòng Hà Nội phố. Chút nụ Đào nho nhỏ yêu yêu như nụ tầm xuân nở lốm đốm trên bó dăm Đào. Như cánh én liệng bay mỗi độ xuân về, Đào Dăm theo chân các gánh hàng hoa lượn trên phố cổ.
Chợt thoáng gặp vài nhánh dăm Đào khiêm nhường lác đác nụ xuân, lòng người Hà Nội nao nao chuẩn bị cho thời khắc giao mùa.