Đào xưa lác đác
Tản văn của Chí Dũng

01/02/2013 08:28

Tình cờ, năm nay gã được khẽ chạm vào “Nàng Đào” được liệt vào hạng quý nhất đất Việt. Giữa cái thời buổi kinh tế hoảng loạn, vậy mà vẫn có kẻ sẵn tiền, nằng nặc đòi bỏ cả trăm triệu đồng chỉ để thưởng đào dăm ba bữa Tết, mà… vẫn không xong. 

Vậy ra không phải là có tiền mua tiên cũng được. Mặc cho kẻ có tiền kia lăn lóc vật nài, Tiên Đào của gã ngự vững trên bàn thạch bích, khẳng định ngôi Vương giữa rừng đào Nhật Tân đang khoe sắc dưới gió xuân.

Gã không mất gì mà vẫn được mãn nhãn thỏa thích ngắm Nàng Đào quý. Cũng có thể do gã gặp may. Hay là kiếp trước gã khéo tu không biết? Gã tới chơi vào một ngày sát Tết, nàng Tiên Đào vẫn còn đó, nét đẹp quyền quý thanh cao giữa đám quân hầu Đào Bích, Đào Phai, Đào Rừng… đủ loại đang đua nhau khoe sắc. Âu cũng là cái duyên của gã với Nữ vương của các loại hoa Đào - Nàng Đào Thất Thốn.

Đừng nói tới dân chơi đào tay mơ, gã dám chắc tới 99,9% số kẻ được coi là kỳ cựu trong nghề chơi đào Tết chưa từng hữu duyên hạnh ngộ cùng Nàng Đào Thất Thốn.

Chơi đào cũng như bất cứ nghề chơi công phu nào cũng đều có thứ có hạng. Chơi đào Tết không phải là ngoại lệ. Khoan hãy nói đến Nàng Đào Thất Thốn đỏng đảnh khó chiều đứng vào hạng dân chơi Vương hầu Khanh tướng.

 Bãi đào giờ đây không còn đào phai? Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn
Bãi đào giờ đây không còn đào phai?                                               Ảnh: Nguyễn Quang Tuấn

Nói chuyện đào, hãy bắt đầu từ hạng xoàng nhất trong thứ bậc chơi đào là Đào Dăm - đào thải.

Hạng xoàng nhất phải nói là cánh chơi Đào Dăm. Gần Tết, vào độ trước rằm tháng chạp, toòng teng trên ghi đông xe đạp của mấy bà mấy cô bán hoa dạo thường có vài bó Đào dăm. Những nhánh đào mọc vô duyên bị những ông chủ vườn đào cắt bỏ không thương tiếc. Thứ hàng Đào thải được bó thành từng ôm, to bằng cái chổi xể, bị các ông chủ bà chủ vứt cả đống ngay đầu luống đào.

 Ngữ nghĩa của chữ tiếng Việt “đào thải “có lẽ bắt nguồn từ việc thải đào trong vườn đào mà ra. Đào Thải thường có số phận thảm lắm. Cho dù cùng là kiếp Đào, phận Đào Thải bị cắt, bị bẻ, bị giẫm, bị đạp nơi đầu bờ vạt ruộng. Thân xác gầy gò bị phơi dưới nắng hanh hao khô quắt.

 Gần Tết, trời đất Hà Nội thường hay phải đón nhận những cơn gió mùa đông bắc lạnh giá. Vườn đào đêm đêm run rẩy trước những ngọn gió bấc như những làn roi lạnh quất vào những nụ hoa đang cựa mình thức giấc. Nụ đào dính gió đông lạnh, bị đen đầu, quắt lại rồi khô đi, xốp ộp và không bao giờ đơm hoa.

Cứu một mùa hoa, chủ vườn đào chỉ còn một cách là sưởi ấm cho Đào. Mỗi khi chiều tà, thường chủ vườn gây những đống rấm nho nhỏ sưởi ấm cho Đào, cho người canh vườn Đào. Vậy là Đào Thải bị hóa kiếp thành củi khô đem thân xác sưởi ấm làng Đào.

Ở làng Đào, nhưng không phải ai cũng biết nghề trồng Đào. Đó là còn chưa kể không phải ai cũng có đất để có thể làm nghề trồng Đào. Địa danh Dinh Đào nếu có thì chỉ còn trong ký ức của những thế hệ chơi đào xa lắc xa lơ. Vùng đó nay đã thành khu đô thị giá cả mấy nghìn đô một mét đất. Dân làng Đào còn mấy ai theo nghề. Giờ người đi mót Đào có khi còn đông hơn người trồng Đào.

 Ở các làng thuần nông có mót lúa, mót khoai, ở làng Đào cũng có câu chuyện mót Đào.

 Đào Thải vứt ở ruộng đào được bà già, trẻ con tranh nhau mót lại. Khác với mót lúa, mót khoai là mót sau khi gia chủ thu hoạch xong, mót đào là mót khi gia chủ chưa tới vụ thu hoạch. Vậy nên nói là mót nhưng thực ra là xin.

“Chỗ này gặp khách cũng được dăm mười nghìn đấy chú”.

Bà lão gầy gò xòe cho gã xem mớ dăm Đào bà vừa mót được. Những nếp nhăn nheo trên mặt bà có vẻ như giãn ra vui vui. Những ngón tay gầy guộc, xương xẩu, lần mần cố bòn từng nụ Đào sót lại trên cành Đào dăm, nhìn đến tội nghiệp.

Vào tay nhà khó, nhành Đào Thải mót được bỗng được nâng niu yêu chiều như một cứu vớt cho những ngày giáp Tết đắt đỏ. Tý tiền còm năm - mười nghìn bạc cho một nắm dăm đào. Chút tiền mọn chỉ như nhúm gạo bà lão bỏ thêm vào nồi cơm giúp con, giúp cháu. 

Thương lắm! Quý lắm!

Đào Dăm.

Trong cái rét buốt như kim châm, bà lão móm mém kể cho gã nghe chuyện làng Đào của bà ngày xưa. 

Câu chuyện cách đây có mấy chục năm thôi, giờ nghe như chuyện cổ tích. Theo lời kể của bà lão, gã lờ mờ hiểu được nỗi truân chuyên của kiếp Đào Nhật Tân.

Ngày đó, thú chơi Đào tao nhã bị người ta coi như một loại tàn dư phong kiến, của lũ tạch tạch xè (tiểu tư sản). Thú chơi Đào không hiểu sao lại bị gán cho là thú chơi của bọn nhà giàu, bọn bóc lột ăn trên ngồi trốc. 

Làng Đào truyền thống của bà, của Hà Nội phố được “lúa hóa” hầu như toàn bộ. Cây Đào Nhật Tân khi ấy chỉ còn sống thoi thóp trong vườn nhà một số nghệ nhân yêu đào cố giữ lấy nghề. Các cụ cố nghệ nhân Đào cố bảo tồn giữ gìn một thú chơi cho người Hà Nội.

Quả là trời không phụ lòng người, cây đào tồn tại được qua thời bao cấp bung mình hồi sinh vào thời buổi kinh tế thị trường. Cùng với kinh tế Việt Nam, cây đào bừng lên sức sống mỗi dịp Tết đến xuân về, trang điểm cho Hà Nội thêm rực rỡ sức xuân.

Dân Hà Nội thoát thời bao cấp, lại tập tọng phục hồi thú chơi Đào phong lưu tao nhã. Cây đào Nhật Tân lại lên hương, lại được trở về chân giá trị.

Kể đến đây giọng bà chùng xuống, bàn tay bó Đào chợt ngưng lại. Bàn tay gạt mấy sợi tóc bạc lơ thơ xòa xuống mặt, bà như muốn xua đi một ký ức buồn. Gã hiểu, bà đang đau lòng khi nhớ lại vùng đất của làng Đào bỗng chốc biến thành vùng đô thị đắt giá. Mấy nghìn đô một mét đất vườn Đào, trồng Đào biết mấy mươi đời mới có nổi số tiền khủng đó. Là bậc sinh thành, mấy ai có thể cầm lòng nhìn con cháu lam lũ cực nhọc chăm sóc Đào cả năm, rồi cứ mỗi dịp xuân về lại đánh bạc với nắng với mưa với trời với đất.

Hòa với trào lưu chung, bà lão bán đất chia tiền cho con cho cháu. 

Không có đất, con cháu phá ngang đi làm lao động phổ thông trên phố, không còn ai theo nghề trồng Đào. Ông lão vắn số sớm quy tiên làm bà suy sụp. Thèm Đào, mỗi năm Tết đến bà lại tha thẩn ra vườn Đào bãi sông Hồng cho đỡ nhớ, đỡ thèm, để nhớ lại một thời xa lắc.

Làng Đào của bà nay được Nhà nước quy hoạch ra ngoài đê. Chia lô chia đất sòng phẳng rạch ròi cho từng nhà. Vườn Đào được phân định biên giới bằng những hàng gạch xây chắc chắn. Bê tông hóa tới tận cổng vườn giúp xe tải to đi lại tránh nhau thoải mái.

 Vườn đào Nhật Tân giờ hao hao giống kiểu nông trường, nông trang tập thể thời Liên Xô cũ. Có khác là chỉ khác bên trong những ô vuông được bê tông hóa vẫn là con người Nhật Tân. Vẫn chỉ là những ông chủ bà chủ vườn đào với cách làm đào theo kiểu công nghiệp hóa nửa vời.

Đất bãi sông Hồng màu mỡ lắm, phù sa hợp với quất hơn với Đào. Bà lão bảo Đào bây giờ không bằng xưa. Nụ Đào bị xộp và hoa không còn đỏ thắm, đẹp như xưa. Không có chân đất thịt quánh đỏ au như ngày trước ở trong đê sông Hồng, lấy đâu ra thứ đào Nhật Tân xưa.

 Thứ chất đất đặc biệt làm nảy ra dòng hoa Đào Nhật Tân nổi tiếng. Dòng Đào đã sản sinh ra cành đào nổi tiếng, được vua Quang Trung chuyển vào tận miền trong tặng cho người vợ yêu Ngọc Hân công chúa.

Dân làng Đào giờ đã thay đổi nhiều. Nhiều người cũng không còn coi việc trồng Đào như một thứ nghề chính yếu nữa. Chỉ còn lại rất ít những nghệ nhân có tâm với nghề trồng Đào.

 Người chơi Đào giờ cũng đông hơn và cũng tạp hơn. Phần nhiều chỉ cốt có chút mầu đỏ đỏ hồng hồng trong nhà mỗi dịp xuân về. 

Một chút dễ dãi, một chút tham rẻ giúp Đào Dăm, thứ Đào bị thải loại vẫn còn có chỗ đứng trong lòng Hà Nội phố. Chút nụ Đào nho nhỏ yêu yêu như nụ tầm xuân nở lốm đốm trên bó dăm Đào. Như cánh én liệng bay mỗi độ xuân về, Đào Dăm theo chân các gánh hàng hoa lượn trên phố cổ.

Bớt chút tiền quà sáng cũng đủ cho các cậu ấm cô chiêu thời @ tô điểm cho bàn học bằng vài nhành Đào Dăm. Thay cho bông cúc vàng, bông hồng đỏ đắt hơn mỗi độ gió mùa đông bắc, mấy nhánh Đào Dăm bình dị cắm trong chiếc bình nhỏ làm bừng lên sắc xuân trên bàn thờ gia tiên ngày Rằm tháng Chạp.

Chợt thoáng gặp vài nhánh dăm Đào khiêm nhường lác đác nụ xuân, lòng người Hà Nội nao nao chuẩn bị cho thời khắc giao mùa.