Bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của dự án xây đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh
Chiều 16/6, thảo luận tại tổ 11 ( gồm Đoàn ĐBQH các tỉnh Bắc Kạn, Sơn La, Long An, Vĩnh Long) về dự án Luật Đường sắt (sửa đổi), chủ trương xây dựng dự án Đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, các ĐBQH nhấn mạnh tính cấp bách của các dự án này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời đưa ra nhiều ý kiến tâm huyết nhằm tháo gỡ các nút thắt, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả cho những dự án trọng điểm quốc gia.

Gỡ "nút thắt" để ngành giao thông cất cánh
Góp ý về Dự án Luật Đường sắt (sửa đổi), các ĐBQH đánh giá cao sự cần thiết của việc chỉnh sửa, bổ sung dự án luật. Để thể chế hóa chủ trương của Đảng và luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù đã được Quốc hội ban hành cho một số công trình đường sắt cụ thể, các đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế này. Đặc biệt, việc tăng cường giám sát, công khai, minh bạch thông tin và có chế tài phù hợp là điều kiện tiên quyết để tránh những bất cập trong quá trình thực thi.
Góp ý về dự án Luật, ĐBQH Nguyễn Hoàng Uyên (Long An) nhấn mạnh: Hệ thống đường sắt nước ta hiện đối mặt với nhiều hạn chế như hạ tầng xuống cấp, năng lực vận hành thấp và thiếu liên kết đồng bộ. Trong khi đó, Luật Đường sắt hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn.

Đại biểu cũng khẳng định sự cần thiết cấp bách của việc sửa đổi Luật để tạo cơ sở pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu hiện đại hóa hạ tầng, ứng dụng công nghệ, nâng cao an toàn và thu hút nguồn lực xã hội hóa, đưa ngành đường sắt trở thành trụ cột quan trọng trong hệ thống giao thông quốc gia.
Tuy nhiên, để bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả của Luật, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên đã đi sâu vào từng điều khoản cụ thể. Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8), đại biểu đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định: “Cấm chống đối, xúc phạm, hành hung hoặc có hành vi xâm hại người đang thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt”. Đại biểu cho rằng, đây là những hành vi nguy hiểm đã thực tế diễn ra, đe dọa trực tiếp an toàn vận hành hệ thống. Việc bổ sung sẽ bảo vệ lực lượng chức năng và nâng cao ý thức pháp luật.
Đối với phân loại đường sắt (Điều 9), đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên chỉ ra rằng việc lấy ngưỡng tốc độ khai thác 200km/h làm tiêu chí duy nhất là chưa đầy đủ, không phản ánh đúng tính chất kỹ thuật. "Trong thực tế, có nhiều tuyến đường sắt có thiết kế tốc độ trên 200km/h, nhưng khai thác ở mức thấp hơn vì lý do an toàn hoặc vận hành hỗn hợp", đại biểu lý giải... Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nên mở rộng cách tiếp cận, xác định cấp kỹ thuật đường sắt dựa trên cả tốc độ thiết kế và khai thác, đồng thời bổ sung tiêu chí phân loại rõ ràng theo hệ thống tiêu chuẩn quốc gia để bảo đảm tính minh bạch, khả thi.
Liên quan đến giá vận tải hành khách (Điều 55), đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên đánh giá cao việc phân định rõ thẩm quyền quyết định giá, nhưng chỉ ra nhiều bất cập cần được điều chỉnh. Đại biểu nêu rõ: sự phân cấp hiện nay dẫn đến thiếu thống nhất trong hệ thống giá vé toàn ngành, gây khó khăn cho hành khách liên tuyến, liên tỉnh. Hơn nữa, việc thiếu khung giá trần – giá sàn và cơ chế kiểm soát giá rõ ràng có thể dẫn đến việc điều chỉnh giá bất hợp lý vào các thời điểm cao điểm, ảnh hưởng đến quyền lợi người dân.
"Việc niêm yết và công bố giá trên thực tế vẫn còn mang tính hình thức, nhiều nhà ga chưa thực hiện đầy đủ, website chậm cập nhật thông tin. Cùng với đó, chính sách miễn, giảm giá cho các đối tượng chính sách xã hội còn nhiều hạn chế và thiếu cơ chế khuyến khích cạnh tranh lành mạnh" - đại biểu dẫn chứng.
Từ những thực tế trên, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên kiến nghị cần sửa đổi, bổ sung Điều 55 theo hướng thống nhất hơn trong quy định thẩm quyền quyết định giá, bổ sung quy định về khung giá và kiểm soát giá bất hợp lý. Đồng thời, cần tăng cường tính minh bạch trong công bố và niêm yết giá, đơn giản hóa thủ tục hưởng chính sách miễn, giảm giá, và bổ sung quy định về cạnh tranh, chia sẻ doanh thu, khuyến khích doanh nghiệp triển khai các mô hình giá vé linh hoạt. Đại biểu đề xuất có thể giao Chính phủ quy định chi tiết để đảm bảo tính khả thi, linh hoạt và sát thực tiễn.
Đặc biệt, trong bối cảnh cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ Tư, đại biểu Nguyễn Hoàng Uyên đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định về ứng dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác quản lý, điều hành, vận hành, bảo trì và giám sát an toàn giao thông đường sắt. "Việc luật hóa sẽ tạo nền tảng pháp lý quan trọng để thu hút đầu tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành đường sắt Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi số", đại biểu tin tưởng.
Cần có cơ chế đặc thù, đồng bộ để "về đích" đúng hẹn
Thảo luận về chủ trương đầu tư xây dựng Dự án Đường Vành đai 4 TP. Hồ Chí Minh, ĐBQH Lê Thị Song An (Long An) bày tỏ sự đồng tình và thống nhất cao với Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra. Đại biểu nhấn mạnh tuyến đường này là hết sức cần thiết, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cho TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh lân cận như Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Long An; đồng thời góp phần cải thiện tình hình giao thông, kết nối các khu công nghiệp, cảng biển, cảng hàng không quốc tế, và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của toàn vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Từ thực tế đó, đại biểu kiến nghị Chính phủ cần chỉ đạo xây dựng một cơ chế điều phối liên vùng rõ ràng, hiệu quả và nhất quán. Theo đó, đại biểu đề xuất giao một cơ quan đầu mối cụ thể, như Bộ Giao thông Vận tải hoặc thành lập một Ban Chỉ đạo liên ngành trực thuộc Chính phủ, có đủ thẩm quyền điều phối, phân bổ trách nhiệm và kịp thời giải quyết các vướng mắc từ giải phóng mặt bằng đến thi công. "Thực tiễn đã chứng minh, thiếu cơ chế điều phối tập trung, dự án dễ rơi vào tình trạng 'mạnh ai nấy làm', mất đi ý nghĩa liên kết vùng," ĐBQH Lê Thị Song An nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, đại biểu Lê Thị Song An cũng cho rằng: việc hoàn thiện khung pháp lý về PPP là cấp bách để tạo sự tin tưởng cho nhà đầu tư. Do đó, đại biểu kiến nghị Quốc hội và Chính phủ xem xét bổ sung và áp dụng cơ chế tài chính đặc thù đủ mạnh cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, bao gồm ưu đãi về thuế, phí; hỗ trợ từ ngân sách trung ương (đặc biệt cho giải phóng mặt bằng); và cơ chế linh hoạt trong điều hành, giải ngân vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, có cơ chế lựa chọn và phân bổ nguồn lực ưu tiên cho các nhà đầu tư chiến lược có năng lực tài chính và kinh nghiệm.
Về vấn đề giải phóng mặt bằng, ĐBQH Lê Thị Song An khẳng định đây là "nút thắt" lớn nhất. Với nhu cầu sử dụng đất lên đến khoảng 1.415ha, công tác này đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chủ động và quyết liệt. Do đó, Quốc hội và Chính phủ chỉ đạo sát sao việc lập kế hoạch giải phóng mặt bằng chi tiết, gắn với lộ trình đầu tư từng đoạn tuyến; bảo đảm phân bổ đầy đủ, kịp thời nguồn vốn bồi thường; xác định rõ trách nhiệm từng địa phương; tăng cường giám sát để đảm bảo tính công khai, minh bạch, hạn chế khiếu kiện. Đặc biệt, nên có cơ chế linh hoạt cho phép các địa phương có năng lực triển khai nhanh được tạm ứng vốn hoặc sử dụng nguồn dự phòng để giải phóng mặt bằng sớm- đại biểu kiến nghị.
Đồng tình với ý kiến trên, ĐBQH Phan Thị Mỹ Dung (Long An) cũng nhấn mạnh vai trò chiến lược của Đường Vành đai 4 trong việc kết nối các tỉnh, thành phố trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đại biểu khẳng định, dự án không chỉ nhằm giảm tải cho các tuyến xuyên tâm qua TP. Hồ Chí Minh, mà còn giúp hình thành mạng lưới giao thông liên vùng, phục vụ phát triển công nghiệp, đô thị, dịch vụ, góp phần tái phân bố dân cư, giảm áp lực dân số và hạ tầng lên TP. Hồ Chí Minh.

"Dự án sẽ tạo đòn bẩy để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị vệ tinh, các trung tâm logistics. Đồng thời, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Đồng thời, về mặt xã hội, dự án sẽ giảm ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường và cải thiện điều kiện sống cho người dân", đại biểu nhấn mạnh.
Để dự án triển khai hiệu quả, ĐBQH Phan Thị Mỹ Dung kiến nghị Quốc hội sớm thông qua chủ trương đầu tư để các địa phương có đủ thời gian chuẩn bị và triển khai dự án đúng tiến độ. Bà cũng đề xuất cho phép áp dụng các cơ chế đặc thù về vốn, giải phóng mặt bằng, đấu thầu... tương tự như dự án Vành đai 3 – TP. Hồ Chí Minh để đẩy nhanh tiến độ. Đồng thời, giao Chính phủ chỉ đạo chặt chẽ quá trình triển khai, đảm bảo chất lượng, tiến độ và hiệu quả đầu tư; giám sát việc sử dụng vốn công, tránh thất thoát, lãng phí.