Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp?

Nguyễn Liên (ghi) 04/11/2023 17:35

Tác động của dịch bệnh Covid-19 khiến nhiều doanh nghiệp đóng cửa hoặc phá sản; khó khăn từ cơ chế chính sách; khó khăn xuất phát từ chính nhà trường và từ doanh nghiệp là những “điểm nghẽn” gây cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp thời gian qua.

Theo PGS.TS Lưu Bích Ngọc, Chánh Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển nhân lực, ở nước ta thời gian qua, vấn đề liên kết đào tạo giữa nhà trường và doanh nghiệp vẫn chưa được các chủ thể nhìn nhận thấu đáo và triển khai thực hiện một cách phù hợp.

Một trong những minh chứng rõ nhất và dễ dàng nhận thấy là sự mất cân đối nghiêm trọng về cung - cầu nhân lực chất lượng cao. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê tính đến quý I năm 2022, trong hơn 51,2 triệu lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc, tỷ lệ dân số có chuyên môn kỹ thuật chỉ đạt 26,1% và tỷ lệ dân số có trình độ đại học là 11,1%.

“Điều này cho thấy, Việt Nam đang thiếu lao động có tay nghề cũng như công nhân kỹ thuật bậc cao. Các nghiên cứu còn cho thấy, nguồn cung nhân lực đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khan hiếm trong thời gian tới. Vì thế, các doanh nghiệp sẽ còn cần phải đào tạo lại nếu muốn có nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu. Các doanh nghiệp buộc phải liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học trong tìm kiếm nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao”, PGS.TS Lưu Bích Ngọc phân tích.

Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp? -0
Các doanh nghiệp buộc phải liên kết, hợp tác với các cơ sở giáo dục đại học trong tìm kiếm nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao (Hình minh hoạ)

Trung bình 1 cơ sở đào tạo hợp tác với 60 doanh nghiệp

Nói về thực trạng hợp tác giữa các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp ở Việt Nam trong nâng cao chất lượng đào tạo, PGS.TS Lưu Bích Ngọc dẫn báo cáo của Vụ Giáo dục Đại học (Bộ GD-ĐT) về kết quả khảo sát vào tháng 6.2021 liên quan đến hợp tác giữa đại học và doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Theo đó, trong số 135 cơ sở giáo dục đại học có báo cáo gửi về (chiếm khoảng 50% số các cơ sở giáo dục đại học hiện có) thì 40,7% cơ sở đào tạo có hoạt động hợp tác với doanh nghiệp cả trong lĩnh vực công nghệ thông tin và các lĩnh vực khác (55/135 cơ sở đào tạo), 44,4% chỉ có hợp tác trong các lĩnh vực khác (66/135), 8,1% chỉ có hợp tác trong lĩnh vực công nghệ thông tin (11/135), và chỉ 6,7% không có hoạt động hợp tác nào với doanh nghiệp (9/135 cơ sở đào tạo) tập trung chủ yếu vào các cơ sở đào tạo các khối ngành đặc thù thuộc lĩnh vực nghệ thuật.

Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp? -0

Kết quả khảo sát cho thấy 66/135 (48%) cơ sở giáo dục đại học có hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ thông tin trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tổng số các doanh nghiệp có hợp tác với nhà trường là 674 doanh nghiệp, tuy nhiên con số này không trải đều trên các cơ sở đào tạo. Nhóm các cơ sở đào tạo có hợp tác với nhiều doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin nhất (trên 20 doanh nghiệp) gồm: Trường Đại học Bách khoa - Đại học Đà Nẵng (25), Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội (41), Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng (22).

Điều đáng nói là nhiều trường đại học thuộc nhóm công nghệ cao - công nghệ thông tin lại có hợp tác với rất ít doanh nghiệp thuộc lĩnh vực này. Đơn cử, Trường Đại học Công nghệ thông tin – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh chỉ hợp tác với 2 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và không có hợp tác với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác. Trường Đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông - Đại học Thái Nguyên có hợp tác với 3 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và không có hợp tác trong các lĩnh vực khác. Trường Đại học VinUni có hợp tác với 2 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và 8 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác, nhưng đa số là các doanh nghiệp thuộc tập đoàn VinGroup.

Trong các lĩnh vực khác, có 113/135 cơ sở đào tạo có hợp tác với doanh nghiệp, tổng số doanh nghiệp có hợp tác với các cơ sở đào tạo là 5.452 doanh nghiệp. Có 19/135 cơ sở đào tạo có hợp tác với trên 100 doanh nghiệp.

Tổng số doanh nghiệp có hợp tác với 135 cơ sở giáo dục đại học được khảo sát là 6.126 doanh nghiệp, đạt tỉ lệ trung bình là 60 doanh nghiệp/cơ sở đào tạo.

Đặc biệt, có những cơ sở đào tạo có hợp tác rất mạnh mẽ với các doanh nghiệp trong cả lĩnh vực công nghệ thông tin và các lĩnh vực khác gồm Trường Đại học Thủ Dầu Một (75 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và 357 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác), Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh (31 doanh nghiệp công nghệ thông tin và 163 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác);

Trường Đại học Quốc tế Miền Đông (30 doanh nghiệp công nghệ thông tin và 140 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác), Trường Đại học Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh (45 doanh nghiệp công nghệ thông tin và 240 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác), Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội (21 doanh nghiệp công nghệ thông tin và 161 doanh nghiệp thuộc lĩnh vực khác). Có thể nói, đây là khối các trường top đầu trong hợp tác với doanh nghiệp.

Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp? -0
Biểu đồ cho thấy, hợp tác vụ việc chiếm đa số với 45,5%, hợp tác dài hạn có ký kết biên bản thỏa thuận là 36,4%.

Tuy nhiên, PGS.TS Lưu Bích Ngọc đánh giá, từ một góc độ khác nhìn lại, việc hợp tác giữa các trường đại học và doanh nghiệp ở nước ta vẫn còn rất hạn chế.

Tổng hợp kết quả điều tra xã hội học của các tổ chức trong và ngoài nước về thực trạng mối quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ sở đào tạo đại học ở nước ta thời gian qua cho thấy, chỉ có 4% doanh nghiệp hợp tác với các cơ sở đào tạo đại học trong trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; 29% doanh nghiệp tham gia hội thảo, tọa đàm, giảng dạy ở các cơ sở đào tạo.

Hầu hết mối liên kết nhà trường và doanh nghiệp đều xuất phát từ nhu cầu trước mắt, kế hoạch ngắn hạn của doanh nghiệp chứ không phải là từ chiến lược dài hạn (78% so với 22%). Mức độ hợp tác chủ yếu là ở "sự hiểu biết phát triển ban đầu" (214 trong tổng số 493 trường đại học mà các doanh nghiệp ghi là "có sự hợp tác với…"), hoặc "hợp tác ngắn hạn" (174 trong tổng số 493). Chỉ có 58 và 47 trường đại học đang lần lượt được coi là "đối tác lâu dài" và "đối tác chiến lược" của các doanh nghiệp.

Về các hình thức hợp tác trong đào tạo, kết quả khảo sát của Vụ Giáo dục Đại học năm 2021 cho thấy, hoạt động hợp tác nổi bật nhất giữa trường đại học và doanh nghiệp trong đào tạo là hoạt động tiếp nhận sinh viên đến kiến tập/thực tập (gần 90%), các đơn vị không tiếp nhận sinh viên thực tập chủ yếu rơi vào các viện hoặc trung tâm nghiên cứu.

Hoạt động hợp tác chiếm vị trí thứ hai là tài trợ cho các hoạt động liên quan đến đào tạo và ngoại khóa bao gồm: trao học bổng sinh viên, tổ chức ngày hội việc làm, và tuyển dụng sinh viên mới tốt nghiệp (gần 70%). Đây cũng là hoạt động mà đa số các cơ sở đào tạo hướng tới nhằm tìm kiếm đầu ra cho sinh viên của mình.

Việc các doanh nghiệp tham gia góp ý cho chương trình đào tạo, tham gia giảng dạy chủ yếu dừng lại ở mức độ 30%, tập trung chủ yếu vào việc chia sẻ kinh nghiệm và đào tạo kỹ năng cho sinh viên, đánh giá đầu ra và xây dựng chuẩn đầu ra trong chương trình đào tạo. Tương tự, số lượng thỉnh giảng từ các doanh nghiệp đạt tỉ lệ dưới 30%.

“Điều này cho thấy doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm đến vai trò của mình đối với quá trình đào tạo nhân lực. Việc tham gia góp ý chương trình đào tạo, đưa ra tiêu chí đánh giá chuẩn đầu ra cho sinh viên là việc hết sức cần thiết để có thể đào tạo ra những nhân lực đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường lao động”, PGS.TS Lưu Bích Ngọc nhận định.

Mối quan hệ hợp tác đại học - doanh nghiệp còn đứng trước nhiều khó khăn

Nhấn mạnh về những điểm khó khăn, hạn chế trong mối quan hệ hợp tác đại học và doanh nghiệp, PGS.TS Lưu Bích Ngọc tiếp tục dẫn chứng khảo sát của Vụ Giáo dục Đại học về vấn đề này.

Theo đó, khó khăn lớn nhất là những tác động của dịch bệnh Covid-19 bởi vì từ 2020 đến nay, rất nhiều doanh nghiệp đã đóng cửa hoặc phá sản. Nhiều hợp đồng, thỏa thuận hợp tác, biên bản ghi nhớ đã ký kết về việc tiếp nhận sinh viên thực tập hoặc tuyển dụng đã không thể thực hiện được. Đây là yếu tố nằm ngoài dự tính nhưng trên thực tế lại là yếu tố tác động gây cản trở mạnh mẽ nhất đến mối quan hệ hợp tác này.

Ngoài ra, khó khăn và hạn chế từ cơ chế chính sách chiếm tới 42% tổng số các cơ sở giáo dục đại học có báo cáo. Ngoài ra, có nhiều khó khăn xuất phát từ chính nhà trường và từ doanh nghiệp.

Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp? -0

Về cơ chế chính sách, hoạt động hợp tác giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp đã được đề cập và khuyến khích trong nhiều văn bản pháp luật. Tuy nhiên, thực tế triển khai hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp còn một số khó khăn về pháp lý.

Ví dụ, còn có sự chồng lấn giữa các luật (như Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công…) trong khi chưa có những Nghị định quy định rõ ràng cách áp dụng những luật này cho các cơ sở giáo dục đại học khi thực hiện tự chủ trong ký kết hợp tác. Nghị định về hoạt động khoa học công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học chưa được ban hành, chưa tạo động lực cho các trường đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Đối với hình thức hợp tác trong đào tạo, việc mời giảng viên thỉnh giảng đến từ doanh nghiệp vấp phải quy định về bằng cấp, trình độ đối với giảng viên đại học (giảng viên thỉnh giảng phải có bằng thạc sĩ khi dạy cho trình độ đại học, phải có bằng tiến sĩ khi dạy cho trình độ cao học) trong khi những người có kinh nghiệm thực tiễn tại các doanh nghiệp có thể chia sẻ với sinh viên lại không có trình độ bằng cấp như vậy.

Bên cạnh đó, kinh phí nếu dùng ngân sách theo quy định của Nhà nước cho 1 giờ giảng thường thấp. Các cơ sở giáo dục đại học thường phải sử dụng các nguồn kinh phí khác thay thế để có thể mời được người tới từ doanh nghiệp trong khi chi phí để mời được những đại diện doanh nghiệp lớn không phải là nhỏ. Hiện nay, vẫn chưa có hành lang pháp lý, cơ chế chính sách khuyến khích doanh nghiệp và cơ sở giáo dục đại học hợp tác theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi.

Về phía nhà trường, PGS.TS Lưu Bích Ngọc nêu thực tế tại Việt Nam, thị trường lao động chưa phát triển; việc làm doanh nghiệp tạo ra thường nhỏ hơn so với nhu cầu và lượng nhân lực được đào tạo. Vì vậy, các doanh nghiệp không khó khăn khi tuyển dụng dẫn đến doanh nghiệp không thấy được việc thúc đẩy hợp tác với nhà trường là cần thiết. Nhiều cơ sở đào tạo chưa thiết lập được bộ phận chuyên trách về xúc tiến liên kết hợp tác với doanh nghiệp; đa số các cán bộ làm kiêm nhiệm, không được tập huấn, bồi dưỡng về kỹ năng và kinh nghiệm đàm phán, hợp tác.

Trình độ sinh viên (ngoại ngữ, kỹ năng) của nhiều trường chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp dẫn đến doanh nghiệp không thể cho phép sinh viên tham gia làm việc/thực tập tại doanh nghiệp. Nhiều trường chưa tổ chức được các nhóm nghiên cứu mạnh; các nhà khoa học và sinh viên chưa tiếp cận được với doanh nghiệp để có thể lắng nghe nhu cầu của doanh nghiệp trong nghiên cứu khoa học và nghiên cứu sản phẩm mới hoặc để có được những nghiên cứu đúng với nhu cầu của doanh nghiệp.

Trong xây dựng chương trình đào tạo, mặc dù nhà trường có mời các doanh nghiệp tham gia, góp ý chỉnh sửa, hoàn thiện nội dung chương trình đào tạo qua các năm học, thậm chí có văn bản ký kết nhưng thực tế hoạt động này chưa thu hút được sự tâm huyết, quan tâm, sát sao của doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp vì giữ bí quyết công nghệ, nên từ chối không cho các trường dẫn sinh viên tới tham quan, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm khiến kết quả của quá trình đào tạo và yêu cầu của doanh nghiệp luôn có khoảng cách.

Việc đảm bảo các điều kiện cần thiết để duy trì, phát triển các mối quan hệ lâu dài với đối tác còn thiếu và yếu; nguồn kinh phí cho hoạt động hợp tác phát triển nói chung và kinh phí đối ứng cho các hoạt động nghiên cứu, trao đổi còn rất eo hẹp và hạn chế.

Từ phía doanh nghiệp, theo PGS.TS Lưu Bích Ngọc, đa số doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa nên nhu cầu và quy mô hợp tác còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp chỉ nhắm đến lợi ích ngắn hạn, ít quan tâm đến tầm nhìn dài hạn. Theo góc nhìn của doanh nghiệp, các hoạt động hợp tác cần mang lại lợi ích. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp chưa nhận thấy được lợi ích trước mắt khi hợp tác với trường đại học. Vì vậy, để hoạt động kết nối tốt cần có các hình thức tạo lợi ích cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, việc hợp tác với doanh nghiệp trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đang được quan tâm thúc đẩy để tương xứng với tiềm năng của các cơ sở giáo dục đại học. Tuy nhiên, các đơn đặt hàng của doanh nghiệp còn hạn chế, phần lớn là chuyển giao công nghệ đã hình thành và kết quả nghiên cứu của các đề tài.

Việc liên kết hợp tác đào tạo cũng gặp nhiều khó khăn cũng một phần do các doanh nghiệp chưa hoạch định được kế hoạch nhu cầu sử dụng lao động và vị trí việc làm tại các doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chỉ thực hiện nhiệm vụ tuyển dụng và xem nhiệm vụ đào tạo là của các cơ sở giáo dục và xã hội.

Nhiều doanh nghiệp khi tuyển dụng đòi hỏi ứng viên phải có “kinh nghiệm”, nhưng với những sinh viên mới ra trường điều này là không thể, dù nhà trường tìm nhiều cách đổi mới chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy, thực hành - thực tập ở xưởng, tăng cường nghiên cứu khoa học qua các phong trào, hội thi nhằm trang bị cho sinh viên nhiều kỹ năng, kinh nghiệm trong ngành nghề.

Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp? -0
Nhiều doanh nghiệp khi tuyển dụng đòi hỏi ứng viên phải có “kinh nghiệm”, nhưng với những sinh viên mới ra trường điều này là không thể (Hình minh hoạ)

Giải pháp tăng cường mối quan hệ giữa đại học và doanh nghiệp trong nâng cao chất lượng đào tạo

Từ thực trạng nói trên, PGS.TS Lưu Bích Ngọc đề xuất một số giải pháp tăng cường mối quan hệ gắn kết giữa đại học và doanh nghiệp trong nâng cao chất lượng đào tạo, với 4 nhóm giải pháp chính sách chính.

Thứ nhất, nhóm giải pháp chính sách cải thiện môi trường thông tin như xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học (HEMIS); phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động (LMIS); xây dựng và hoàn thiện hệ thống truy vết sinh viên tốt nghiệp; tạo cơ chế gắn kết giữa các hệ thống thông tin trên dưới sự quản lý và điều phối của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

Thứ hai, nhóm giải pháp chính sách tạo động lực giữa cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp như hoàn thiện và tích cực tổ chức, triển khai thực hiện Khung trình độ quốc gia; mở rộng các dự án tài trợ hiện có, thu hút các chương trình tài trợ đổi mới sáng tạo, khuyến khích các dự án nghiên cứu trên cơ sở hợp tác giữa các các cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp; thực hiện Quyết định 209/QĐ-TTg năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ về “phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” …

Thứ ba, nhóm giải pháp chính sách nâng cao năng lực của các cơ sở giáo dục đại học như xây dựng và ban hành các tài liệu hướng dẫn nâng cao năng lực quản trị của cơ sở giáo dục đại học và doanh nghiệp; nâng cao năng lực của cả cơ sở giáo dục đại học và doanh ngiệp trong việc triển khai quan hệ đối tác công tư (PPP) trong giáo dục đại học.

Thứ tư, nhóm giải pháp chính sách phát triển đại học tự chủ sáng nghiệp như hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của đại học tự chủ sáng nghiệp; mở rộng quyền tự chủ đại học về chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính, hợp tác trong nước và quốc tế đối với các cơ sở giáo dục đại học sáng nghiệp; ban hành các chính sách hỗ trợ tài chính và phi tài chính trong việc triển khai xây dựng các vườn ươm doanh nghiệp thông qua nhiều dự án khác nhau, bao gồm dự án đấu thầu, dự án ODA, dự án PPP.

Ngoài ra, để thúc đẩy hợp tác đại học với doanh nghiệp, PGS.TS Lưu Bích Ngọc cho rằng về phía các cơ quan Nhà nước, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách để thúc đẩy sự hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp; tăng quyền tự chủ cho các trường đại học và hoàn thiện cơ chế tự chủ của các trường đại học công lập.

Bên cạnh đó, cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc cung cấp thông tin về nhu cầu nhân lực và hỗ trợ các trường đại học trong quá trình đào tạo; xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin quản lý giáo dục đại học (HEMIS), phát triển hệ thống thông tin thị trường lao động (LMIS), thường xuyên thống kê cung - cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao trên tất cả các ngành nghề trong xã hội để điều tiết lĩnh vực giáo dục - đào tạo cho phù hợp.

Đẩy mạnh tổ chức triển khai thực hiện Khung trình độ quốc gia, quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, hoàn thiện các quy định về cơ chế tổ chức và hoạt động của các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục.

Về phía các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược tự nâng cao năng lực tự thân về phương diện năng lực đội ngũ, năng lực quản trị nhà trường, năng lực đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ. Xây dựng chiến lược phát triển nhà trường có định hướng rõ ràng, theo đại học định hướng ứng dụng, đại học định hướng nghiên cứu tiến dần lên đại học sáng nghiệp, để có những lộ trình, bước đi phù hợp trong xây dựng và phát triển mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội, phát triển nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Ngoài ra, cần có sự tham khảo nhu cầu thị trường và doanh nghiệp để từ đó xây dựng khung chương trình, giảng dạy, biên soạn, cải tiến giáo trình giảng dạy, hình thức đào tạo, đánh giá sinh viên, nâng cao năng lực tự học của sinh viên sao cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu của doanh nghiệp trong từng giai đoạn. Các trường đại học cần bảo đảm tính tiên tiến, hiện đại của chương trình đào tạo, phối hợp với doanh nghiệp để nghiên cứu xây dựng chương trình đào tạo phù hợp nhu cầu doanh nghiệp. Cử các giảng viên, cán bộ quản lý đến doanh nghiệp học tập, trao đổi kinh nghiệm, vướng mắc trong quá trình đào tạo.

Các cơ sở giáo dục đại học cũng cần tạo mối quan hệ thật chặt giữa trường và đơn vị sử dụng lao động để sinh viên sẽ có môi trường thực tập, doanh nghiệp cũng sẽ cùng với nhà trường để “song giảng”, tức trường dạy lý thuyết, còn doanh nghiệp dạy thực tiễn. Mời “giảng viên” là những người đang hoạt động tại doanh nghiệp làm thỉnh giảng tại các chương trình đào tạo của nhà trường. Phối hợp cùng doanh nghiệp tổ chức cho sinh viên tham quan, thực tập, tìm hiểu quy trình sản xuất, những công nghệ hiện có nhằm giúp sinh viên định hướng được ngành nghề mình đang học và xác định mục tiêu học tập của sinh viên.

Đồng thời, huy động sự tham gia của doanh nghiệp vào việc hỗ trợ tài chính (học bổng, đề tài nghiên cứu khoa học…), cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy và học tập. Tăng cường vai trò của doanh nghiệp đối với các cơ sở giáo dục đại học như tham gia vào Hội đồng trường, Ban cố vấn của Hội đồng doanh nghiệp để tiếp nhận khuyến nghị từ doanh nghiệp. Xem xét, điều chỉnh, giảm thiểu thời gian đào tạo lý thuyết tại trường; chủ động đề xuất và phối hợp thực hiện nghiên cứu khoa học với doanh nghiệp.

Xây dựng và phát huy vai trò mạng lưới cựu sinh viên, đặc biệt là các cựu sinh viên đang vận hành và làm việc trong khối doanh nghiệp. Tính chất kết nối của mạng lưới không chỉ mang tính chất kêu gọi sự “tri ân” mà là huy động “sự đồng hành” trong xây dựng phát triển nhà trường cũng như xây dựng và phát triển doanh nghiệp.

    Nổi bật
        Mới nhất
        Yếu tố nào cản trở mối quan hệ hợp tác giữa trường đại học và doanh nghiệp?
        • Mặc định
        POWERED BY ONECMS - A PRODUCT OF NEKO