Kiểm soát rủi ro ngay từ ban đầu
Theo Kiểm toán Nhà nước (KTNN), giai đoạn 2017 - 2021, công tác quản lý, bảo vệ môi trường đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn Hải Phòng đã từng bước được quan tâm và đạt được những kết quả nhất định.
Cụ thể, UBND thành phố đã ban hành các văn bản, chỉ thị, kế hoạch… về bảo vệ môi trường, tài nguyên nước. Đáng chú ý, thành phố đã có các chủ trương, quy định cụ thể về danh mục dự án công nghiệp khuyến khích đầu tư, đầu tư có điều kiện hoặc không chấp thuận đầu tư, qua đó kiểm soát các ngành nghề tiềm ẩn rủi ro ô nhiễm môi trường ngay từ ban đầu.
Đối với công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường, UBND thành phố đã phân cấp, ủy quyền nhằm thực hiện cơ chế một cửa liên thông, giảm thiểu thời gian thực hiện thủ tục hành chính.
Đối với công tác kiểm tra, giám sát, thành phố thực hiện định kỳ, qua đó phát hiện, nhắc nhở, chấn chỉnh các trường hợp cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ chưa tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường.
Trong giai đoạn 2017 - 2021, Sở Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện kiểm tra chấp hành quy định về bảo vệ môi trường đối với 79/123 cơ sở, đạt 64,2% kế hoạch đề ra; thực hiện kiểm tra việc chấp hành quy định về tài nguyên nước đối với 1 cơ sở. Ban Quản lý khu kinh tế đã thực hiện kiểm tra, giám sát đối với 135/199 cơ sở, đạt 67,8% kế hoạch.
Chưa có hệ thống quan trắc tự động, liên tục
Mặc dù vậy, kết quả kiểm toán chỉ ra vẫn còn một số bất cập, hạn chế. Theo đó, UBND thành phố ban hành Quyết định số 3471/QĐ-UBND ngày 27.12.2018 về việc ủy quyền thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ thực hiện trong khu công nghiệp chưa bảo đảm đầy đủ căn cứ theo quy định. Một số văn bản, quy định về tài nguyên nước, bao gồm các nguồn nước tiếp nhận nước thải từ các khu kinh tế, khu công nghiệp thuộc trách nhiệm của UBND cấp tỉnh theo Luật Tài nguyên nước và các văn bản liên quan chưa được ban hành, như quy định về phân vùng chức năng, đánh giá khả năng tiếp nhận nước thải, sức chịu tải của nguồn nước nội tỉnh; danh mục nguồn nước nội tỉnh…
UBND Thành phố cũng chưa xây dựng, hoàn thiện hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về tài nguyên nước theo yêu cầu; chưa có cơ sở để các đơn vị được cấp phép xả thải, khai thác tài nguyên nước cập nhật số liệu; chưa truyền được số liệu về Bộ Tài nguyên và Môi trường phục vụ công tác giám sát; chưa có hệ thống quan trắc tự động, liên tục để giám sát môi trường xung quanh.
Bên cạnh đó, các điểm quan trắc môi trường trong khu kinh tế, khu công nghiệp còn ít, chủ yếu các vị trí quan trắc ngoài các khu này. Việc lựa chọn các thông số quan trắc môi trường nước mặt từng năm đối với khu kinh tế, khu công nghiệp chưa đầy đủ thông số theo quy định. Điều này dẫn đến các số liệu quan trắc chưa liên tục, chưa bảo đảm dữ liệu phản ánh tình trạng môi trường thường xuyên, đầy đủ phục vụ công tác giám sát, phòng ngừa, ứng phó sự cố, nhất là tại các khu vực trọng điểm, nhạy cảm về môi trường.
Mặt khác, công tác lập, phê duyệt kế hoạch thanh tra, kiểm tra của Sở Tài nguyên và Môi trường, Ban Quản lý khu kinh tế còn trùng lặp (12 cơ sở). Tỷ lệ các cơ sở phải điều chỉnh, đưa ra khỏi kế hoạch không thực hiện thanh tra, kiểm tra còn cao. Theo đó, Sở Tài nguyên và Môi trường có 44/123 cơ sở chưa kiểm tra, chiếm 35,8% và 13/13 cơ sở chưa thực hiện thanh tra theo kế hoạch đề ra; Ban Quản lý Khu kinh tế có 64/199 cơ sở chưa kiểm tra theo kế hoạch đề ra, chiếm 32,2%.
Cũng theo kết quả kiểm toán, tỷ lệ các cơ sở, dự án có tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, bảo vệ môi trường còn ở mức cao. Công tác xử lý vi phạm và việc theo dõi tình hình thực hiện kết luận kiểm tra còn hạn chế.
Cụ thể, Ban Quản lý khu kinh tế chưa báo cáo cơ quan thẩm quyền xem xét, xử lý vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường. Một số cơ sở chưa gửi báo cáo khắc phục về hồ sơ bảo vệ môi trường, chưa có bằng chứng khắc phục, chưa khắc phục hoặc khắc phục chưa đầy đủ các tồn tại qua kiểm tra. Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Bảo vệ môi trường chưa phối hợp để rà soát, củng cố hồ sơ và tham mưu cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các trường hợp vi phạm.
Theo KTNN, các hạn chế, vi phạm chưa được xử lý nghiêm khắc đã làm giảm tính răn đe, tính hiệu lực của các văn bản, quy định pháp luật, dẫn đến một số trường hợp chưa tuân thủ nghiêm túc các kết luận, kiến nghị kiểm tra cũng như chưa khắc phục đầy đủ hoặc còn tái phạm.