Bạn đọc Nguyễn Thị Thiếu (Yên Bái) hỏi: Khoảng năm 1990, gia đình tôi được UBND huyện Văn Yên (thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn cũ, nay là tỉnh Yên Bái) giao và công nhận quyền sử dụng đất là đất thuộc khu tập thể của xí nghiệp đường sắt. Trong quá trình giao cho các hộ dân, trong đó có gia đình tôi có để lại 1 phần diện tích làm ngõ phục vụ cho việc đi lại của khu dân cư (chiều rông của ngõ: 3m2, 2 cạnh thẳng song song…. ). Trong quá trình sử dụng, ngõ đi bị một số hộ dân lấn chiếm (giờ ngõ đi chỉ còn rộng khoảng 1,2m2). Xin hỏi, cơ quan nào có thẩm quyền xử lý hành vi lấn chiếm ngõ đi chung?
Luật sư Hoàng Văn Chiển, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội tư vấn như sau:
Hiện nay, tình trạng lấn chiếm đất công xảy ra một số nơi trên địa bàn cả nước đặc biệt là hành vi lấn chiếm diện tích đất Nhà nước dành làm lối đi chung cho khu dân cư. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng lấn chiếm nêu trên:
Thứ nhất, xuất phát từ công tác quản lý Nhà nước về đất đai chưa chặt chẽ, đồng bộ.
Thứ hai, ý thức của người dân chưa tốt, hiểu biết pháp luật còn hạn chế, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao.
Thứ ba, hiện nay quy định của pháp luật chưa đồng bộ, thống nhất, dẫn đến việc cơ quan quản lý Nhà nước và người dân không nắm được đầy đủ, toàn diện, không hiểu đúng quy định của pháp luật điều chỉnh dẫn đến người quản lý, cơ quan quản lý áp dụng chưa đúng pháp luật.
Tại Điều 12, Luật đất đai năm 2013 quy định:
“Điều 12. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai.
2. Vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố.
3. Không sử dụng đất, sử dụng đất không đúng mục đích.
4. Không thực hiện đúng quy định của pháp luật khi thực hiện quyền của người sử dụng đất.
5. Nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp vượt hạn mức đối với hộ gia đình, cá nhân theo quy định của Luật này.
6. Sử dụng đất, thực hiện giao dịch về quyền sử dụng đất mà không đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
7. Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
8. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định về quản lý đất đai.
9. Không cung cấp hoặc cung cấp thông tin về đất đai không chính xác theo quy định của pháp luật.
10. Cản trở, gây khó khăn đối với việc thực hiện quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, hành vi lấn chiếm ngõ đi nêu trên thuộc trường hợp những hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, sử dụng đất.
Căn cứ thông tin bà cung cấp, sau khi được Uỷ ban nhân dân huyện Văn Yên cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho các hộ dân, Uỷ ban nhân dân huyện có sử dụng một phần diện tích đất làm lối đi phục vụ cho việc đi lại của khu dân cư (chiều rộng của ngõ: 3m2, 2 cạnh thẳng song song….), do đó diện tích đất trên vẫn thuộc trách nhiệm quản lý của Nhà nước.
Cơ quan có trách nhiệm, thẩm quyền, chức năng trong việc quản lý, bảo vệ, xử lý hành vi vi phạm đối với diện tích đất nêu trên trước tiên là Uỷ ban nhân dân cấp xã/phường/thị trấn. Theo đó, trong trường hợp trên là Uỷ ban nhân dân thị trấn Mậu A. Tuỳ từng mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm gây ra, nếu nghiêm trọng hơn thì thẩm quyền giải quyết, xử lý sẽ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Trên cơ sở đó, khi diện tích đất đất đường đi bị lấn, chiếm thì cơ quan quản lý Nhà nước tại địa phương mà ở đây trước tiên là Uỷ ban nhân dân thị trấn có trách nhiệm phối hợp, làm rõ theo quy định (căn cứ theo khoản 12, Điều 22, Điều 23, Điều 208 Luật Đất đai quy định về nội dung quản lý Nhà nước về đất đai trong công tác Thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai của Cơ quan có trách nhiệm, có thẩm quyền. Trong đó có Uỷ ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn).
Khi phát hiện các sai phạm hoặc nhận được thông tin phản ánh của người dân, trước tiên Ủy ban nhân dân thị trấn có trách nhiệm tiến hành kiểm tra, xác minh theo quy định. Trường hợp xác định rõ vi phạm, tùy theo mức độ sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 38, Nghị định số 91/2019 ngày 19.11.2019 của Chính Phủ quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai như sau:
“Điều 38. Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc xử phạt vi phạm hành chính
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 5.000.000 đồng;
c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất;
d) Áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả:
Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu của đất trước khi vi phạm.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 100.000.000 đồng;
c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3, Điều 5, Nghị định này.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền:
a) Phạt cảnh cáo;
b) Phạt tiền đến 500.000.000 đồng;
c) Tịch thu các giấy tờ đã bị tẩy xóa, sửa chữa, làm sai lệch nội dung; giấy tờ giả đã sử dụng trong việc sử dụng đất;
d) Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực đất đai có thời hạn;
đ) Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3, Điều 5, Nghị định này”
Như vậy trong trường hợp của hgia đình bạn, khi Uỷ ban nhân dân thị trấn Mậu A nhận được phản ánh từ người dân Uỷ ban nhân dân thị trấn phải thực hiện các thủ tục xác minh, làm rõ dấu hiệu vi phạm và đồng thời tiến hành lập biên bản ghi nhận hiện trạng. Trường hợp xác định mức độ vi phạm vượt quá thẩm quyền xử lý thì chuyển cấp có thẩm quyền xem xét giải quyết theo quy định.